Báo cáo số 1497/BC-UBKT13 một số ý kiến về việc triển khai thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh

Theo na.gov.vn

Thực hiện sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế đã Báo cáo một số ý kiến về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh tại Kỳ họp thứ 3.

Để chuẩn bị nội dung báo cáo tại Kỳ họp thứ 6, Ủy ban Kinh tế đã đề nghị một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn và tổng công ty Nhà nước báo cáo đánh giá kết quả thực hiện; làm việc trực tiếp với một số bộ, ngành, địa phương, khảo sát thực tế tại một số doanh nghiệp; tổ chức Diễn đàn lấy ý kiến các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học. Ngày 10/10/2013, tại phiên họp thứ 22, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về tình hình triển khai thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế.

Trên cơ sở báo cáo số 388/BC-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ, các ý kiến đóng góp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế xin báo cáo Quốc hội một số ý kiến về việc thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế như sau:

I. Những kết quả đạt được

Sau 2 năm thực hiện Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 Khóa XI, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều thể hiện quyết tâm, triển khai kịp thời các giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã đạt được kết quả bước đầu. Một số đề án trọng tâm tái cơ cấu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như: Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 được phê duyệt tháng 3/2012, Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 được phê duyệt tháng 7/2012, Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm được phê duyệt tháng 12/2012, Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế được phê duyệt tháng 2/2013. Gần đây, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 6/2013. Bộ Công thương đã thực hiện một bước lộ trình áp dụng cơ chế giá thị trường đối với than, điện. Một số luật liên quan đã và đang được bổ sung, sửa đổi tương đối phù hợp theo hướng minh bạch chính sách, tăng cường thể chế kinh tế thị trường, khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh[1]. Hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng đề án tái cơ cấu của địa phương, đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, chủ động cắt giảm đầu tư công, lựa chọn các dự án ưu tiên… Điều này cho thấy sự đồng thuận cao về việc cần thiết phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng chỉ dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào khoa học - công nghệ và nguồn lực lao động tay nghề cao.

1. Việc thực hiện tái cơ cấu đầu tư công

Ngày 9/11/2011, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 12/2011/QH13 khống chế về danh mục và tổng mức phát hành vốn trái phiếu Chính phủ trong cả giai đoạn 2011 - 2015 là 225.000 tỷ đồng, đồng thời yêu cầu Chính phủ thực hiện rà soát, cắt, giảm, giãn, hoãn, chuyển đổi hình thức đầu tư đối với các dự án không được tiếp tục sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã giảm tương đối nhanh, từ mức 54,3% thời kỳ 1999-2000, xuống 51,8% thời kỳ 2001-2005, xuống 38,7% thời kỳ 2006-2010, 37,4% thời kỳ 2011-2012; và ở mức 37,1% trong 9 tháng 2013.

Cân đối vốn đầu tư đã được thực hiện theo kế hoạch trung hạn bao gồm cả vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ và các chương trình mục tiêu quốc gia. Việc phân bổ và giao vốn trái phiếu Chính phủ trung hạn giai đoạn 2012 - 2015 đã tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc sắp xếp, bố trí nguồn lực theo thứ tự ưu tiên, theo đó tập trung bố trí vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành trong các năm 2012 - 2013, giảm dần tỷ lệ nợ đọng trong xây dựng cơ bản, không còn tình trạng yêu cầu doanh nghiệp ứng vốn thi công khi chưa có nguồn vốn, không sử dụng vốn vay từ ngân sách địa phương để khởi công khi chưa có nguồn trả... Cơ chế phân cấp quản lý đầu tư bước đầu được hoàn thiện theo hướng đảm bảo quản lý thống nhất của Trung ương về mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án theo quy hoạch từ đó xác định cụ thể trách nhiệm của từng cấp, từng địa phương trong việc đầu tư dàn trải.

2. Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-TTg phê duyệt đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015 với mục tiêu cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, nâng cao sức cạnh tranh, cung ứng các dịch vụ công ích thiết yếu. Chính phủ cũng đã ban hành một số Nghị định để hoàn thiện cơ chế, chính sách phục vụ cho việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước như: Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp; Nghị định số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ về quy chế giám sát tài chính và đánh giá kết quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước; Nghị định 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ...; Nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động của các tập đoàn và một số tổng công ty nhà nước lớn đang được khẩn trương xây dựng.

Tính đến tháng 8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 100/101 đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2011-2015. Thông qua việc phê duyệt đề án tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty, đã tiến hành rà soát, phân loại, xác định danh mục ngành nghề, phạm vi kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan, ngành nghề không liên quan và xây dựng kế hoạch tiến hành cổ phần hóa. Trên cơ sở đề án được phê duyệt, một số tập đoàn và tổng công ty đã xây dựng, ban hành mới hoặc hoàn thiện hệ thống quy chế quản trị nội bộ, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành nhằm tinh giảm biên chế, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

3. Về tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán

a) Về tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại

Tính đến thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước đã phê duyệt 08 phương án cơ cấu lại đối với 09 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, cụ thể: 03 ngân hàng đã hợp nhất, 01 ngân hàng hợp nhất với tổ chức tín dụng khác, 01 ngân hàng đã được sáp nhập, 03 ngân hàng đã được chấp thuận phương án tự cơ cấu lại và thay đổi cổ đông lớn mới. Đối với 01 ngân hàng yếu kém còn lại, Ngân hàng Nhà nước đang xem xét, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về phương án tự củng cố, chấn chỉnh trên cơ sở có sự tham gia vốn của tổ chức tín dụng nước ngoài. Bên cạnh việc tập trung chỉ đạo xử lý 09 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém đã được xác định từ đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục yêu cầu các ngân hàng thương mại xây dựng phương án tự tái cơ cấu theo mục tiêu của Đề án tái cơ cấu được Chính phủ phê duyệt. Đến nay đã có 02 ngân hàng thương mại là Ngân hàng phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh và Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á tiến hành sáp nhập tự nguyện nhằm nâng quy mô, năng lực quản lý, hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Song song đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 26/7/2013 sẽ góp phần xử lý nợ xấu cho hệ thống các tổ chức tín dụng[2]. Trong năm 2012 và 7 tháng năm 2013, các ngân hàng thương mại tăng cường trích lập dự phòng rủi ro và đã sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu được 86,3 nghìn tỷ đồng. Tính đến cuối tháng 7/2013, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, nợ xấu là 138,98 nghìn tỷ đồng chiếm 4,58% tổng dư nợ.

b) Về tái cấu trúc thị trường chứng khoán

Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành kèm theo Quyết định số 1826/2012/QĐ-TTg ngày 06/12/2012[3]. Đề án đã xác định các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và hoạch định các giải pháp để tái cấu trúc toàn diện thị trường chứng khoán, hàng hóa trên thị trường, tái cấu trúc thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, tái cấu trúc nhà đầu tư và tổ chức kinh doanh chứng khoán, tái cấu trúc các Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán.

Đề án tái cấu trúc công ty chứng khoán tiếp tục được triển khai thực hiện với mục tiêu đảm bảo sự ổn định của thị trường chứng khoán, không gây ra những xáo trộn lớn, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Đã phân loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán thành 4 nhóm và thực hiện các giải pháp tương ứng phù hợp; áp dụng một số biện pháp cụ thể đối với 24 công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ hoạt động kém hiệu quả hoặc có vi phạm; ban hành quy định về quỹ mở; đơn giản hóa thủ tục hành chính về việc tham gia thị trường chứng khoán; nâng cao điều kiện niêm yết và chất lượng của các tổ chức phát hành; tăng cường kỷ luật công bố, công khai hóa thông tin…

II. Những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện Đề án tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Đến nay, tiến độ thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đặc biệt là tiến độ tái cơ cấu ba lĩnh vực trọng tâm là tương đối chậm so với yêu cầu các Nghị quyết của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội. Các giải pháp thực hiện vẫn mang tính hành chính và ở khung cơ chế, chưa có những thay đổi mang tính đột phá. Vì vậy, kết quả ban đầu về tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế theo từng ngành nổi lên các vấn đề sau:

1. Tái cơ cấu đầu tư công

Hiện nay, tái cơ cấu đầu tư công chỉ thực hiện theo Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đây là giải pháp mang tính chất tình huống và ngắn hạn, chỉ là bước thực hiện Nghị quyết 11 ngày 24/02/2011 của Chính phủ và đến nay Chính phủ chưa phê duyệt đề án toàn diện tái cơ cấu đầu tư công. Bên cạnh đó, về hoàn thiện thể chế nhất là Luật đầu tư công, Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đang trong quá trình xây dựng trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 và thứ 7 tới đây.

Tỷ lệ đầu tư công giảm từ 8,5% GDP năm 2010 xuống còn 6% năm 2012, trong khi chưa có các biện pháp đột phá để huy động các nguồn vốn khác tham gia đầu tư để giữ ổn định tổng mức đầu tư toàn xã hội, duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội. Ngoài ra, việc thực hiện trên thực tế về tái cơ cấu đầu tư công đã bộc lộ mặt trái, việc cắt giảm vốn đầu tư công chưa gắn với việc nâng cao hiệu quả đầu tư, chưa thực sự hợp lý, gây nên tình trạng nhiều công trình đang xây dựng dở dang, lãng phí, tác động tiêu cực đến tâm lý người dân và tăng khó khăn cho doanh nghiệp là nhà thầu xây dựng.

Một số tồn tại trong đầu tư công vẫn chưa được giải quyết như việc điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư quá lớn ở hầu hết các dự án dẫn đến mất cân đối về nguồn vốn, nhiều dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư do tăng giá, điều chỉnh yếu tố kỹ thuật, tăng quy mô chưa hợp lý. Theo Báo cáo số 196/BC-CP ngày 17/5/2013 của Chính phủ, giai đoạn 2006 - 2012, trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ký túc xá sinh viên, di dân tái định cư đã bố trí vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện 2.682 dự án (tương đương 2.863 dự án và tiểu dự án) với tổng mức đầu tư ban đầu là 409.415,5 tỷ đồng. Tính đến thời điểm giao kế hoạch năm 2012, các dự án nêu trên đã điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 684.794,5 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành được 2.029 dự án. Chính phủ đã tiến hành việc rà soát, cắt, giảm, giãn, hoãn, chuyển đổi hình thức đầu tư 166 dự án với tổng mức đầu tư theo quy định tại Nghị quyết số 881/2010/UBTVQH12 là 131.280,3 tỷ đồng, tổng mức đầu tư điều chỉnh là 151.927,7 tỷ đồng, trong đó vốn đã bố trí từ khởi công đến 31/12/2012 là 37.585 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhu cầu vốn để hoàn thành các dự án có trong danh mục, ngoài số công trình đã cắt, giảm, giãn, hoãn, vẫn còn rất lớn. Việc phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ trước năm 2012 dàn trải, bổ sung nhiều mục tiêu, số lượng dự án và tổng mức đầu tư tăng nhanh, dẫn đến thiếu vốn; nhiều dự án đang triển khai phải cắt, giảm, giãn, hoãn tiến độ, chuyển đổi hình thức đầu tư, gây lãng phí nguồn lực, hậu quả này còn kéo dài trong vài năm tới.

2. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm, cả năm 2013 mới tiến hành được 25 doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp nhà nước thoái vốn khỏi những ngành nghề không phải là ngành nghề chính còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán không thuận lợi, có một số cổ phiếu niêm yết thấp hơn mệnh giá hoặc giá hiện tại thấp hơn thời điểm doanh nghiệp mua cổ phần nên ảnh hưởng đến việc thoái vốn do các doanh nghiệp phải đảm bảo quy định về bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư. Bên cạnh đó, vướng mắc từ một số quy định pháp luật hiện hành khiến các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa thể thoái vốn khỏi những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả, hoặc ngành nghề không phù hợp với định hướng phát triển[4].

Một số nội dung trong các đề án cơ cấu của từng tập đoàn, tổng công ty chưa có giải pháp mạnh mẽ, đột phá thực hiện mục tiêu “đổi mới, phát triển và tiến tới áp dụng đầy đủ khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế” theo Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Trong khi đó, qua làm việc với một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước cho thấy những doanh nghiệp có động lực và chịu áp lực thì có xu hướng tích cực đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại theo chuẩn mực quốc tế hơn.

Nhìn chung, việc triển khai thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa có tính chiến lược, còn rời rạc, chủ yếu là chuyển giao nội bộ tập đoàn, tổng công ty hoặc giữa các doanh nghiệp nhà nước, chưa tạo ra động lực và áp lực để buộc các doanh nghiệp nhà nước đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp. Còn số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước tác động đến tăng trưởng kinh tế hay tác động đến kinh tế vĩ mô cần phải kiên quyết, khẩn trương tiến hành tái cơ cấu. Việc chậm tiến hành tái cơ cấu, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa, tập trung vào ngành nghề sản xuất - kinh doanh chính đã làm kéo dài thời gian phục hồi của nền kinh tế, chậm thúc đẩy thị trường vốn phát triển, giảm niềm tin của các nhà đầu tư.

3. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại

Kết quả tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém vẫn chưa đáp ứng theo mục tiêu của Đề án tái cơ cấu là tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, củng cố năng lực hoạt động của các ngân hàng thương mại, nâng cao trật tự kỷ cương và nguyên tắc thị trường hóa hoạt động ngân hàng. Việc xử lý nợ xấu mới ở giai đoạn đầu, mặc dù tốc độ tăng nợ xấu có dấu hiệu giảm, tuy nhiên chưa mang tính bền vững và những giải pháp vẫn chưa cho thấy góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp[5]

Vấn đề sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng vẫn chưa được hạn chế và kiểm soát hiệu quả, ảnh hưởng đến sự lành mạnh trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, các chi phí khác liên quan đến việc thực hiện những giải pháp tái cơ cấu của chính các ngân hàng như chi phí đánh giá chất lượng tài sản; sắp xếp lại; nâng cao năng lực quản trị, hoạt động của các ngân hàng; chi phí thoái vốn, rút khỏi lĩnh vực đầu tư phi tài chính… cũng chưa được đề cập đến.

4. Tái cấu trúc thị trường chứng khoán

Các biện pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán, dù đã đạt được những kết quả nhất định, song thị trường vẫn còn nhiều tồn tại. Tính đến hết tháng 9/2013, giá trị vốn hoá thị trường/GDP đạt khoảng 27,9% GDP 2012, tỷ lệ này còn thấp so với một số năm trước. Mặc dù số cổ phiếu niêm yết đã tăng khá trong 13 năm qua (từ 41 cổ phiếu vào cuối năm 2005 lên 826 cổ phiếu cuối tháng 9/2013[6]), tuy nhiên, số cổ phiếu niêm yết vẫn còn quá ít so với tổng số công ty cổ phần của cả nước (mới chiếm khoảng 12%). Hiện còn khá nhiều doanh nghiệp lớn, hoạt động có hiệu quả vẫn chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Phương án sáp nhập hai Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã được đưa ra nhưng vẫn chưa có kế hoạch cụ thể để triển khai trên thực tế. Với quy mô thị trường như hiện nay, việc tồn tại hai Sở giao dịch chứng khoán với những hàng hóa, cơ chế giao dịch không có nhiều khác biệt có thể gây lãng phí nguồn nhân lực, chi phí cũng như cơ sở vật chất và hạn chế năng lực canh tranh trên thị trường quốc tế.

III. Những đề xuất, kiến nghị về việc thực hiện Đề án tổng thể và một số nội dung cụ thể

Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một quá trình lâu dài và phức tạp, lại diễn ra trong điều kiện kinh tế thế giới diễn biến khó lường, cùng với những tồn tại từ nhiều năm trước của nền kinh tế nước ta, vì vậy, các giải pháp đưa ra phải vừa xử lý các vấn đề trước mắt, vừa hướng đến các vấn đề cơ bản và dài hạn. Dựa trên thực trạng việc thực hiện Đề án tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong thời gian qua, Ủy ban Kinh tế xin đề xuất:

(1) Về tái cơ cấu đầu tư công: tái cơ cấu đầu tư công cần bảo đảm mức tổng đầu tư toàn xã hội trong 2 năm 2014-2015 duy trì khoảng 32% GDP và phấn đấu đưa hệ số ICOR hiện nay ở mức 5,5 xuống mức 5,2 sẽ tạo tăng trưởng khoảng 6,1%/năm là phù hợp. Bố trí đủ vốn, giải ngân nhanh nguồn vốn đầu tư công để thanh toán nợ xây dựng cơ bản cho doanh nghiệp, tạo tiền đề cho doanh nghiệp tái cơ cấu, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. Làm rõ trách nhiệm về trả nợ xây dựng cơ bản ở các địa phương và có cơ chế xử lý nhanh tình trạng này. Để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư công, có thể cân nhắc việc nâng bội chi ngân sách, phát hành trái phiếu Chính phủ. Bên cạnh đó, có chính sách và biện pháp cụ thể nhằm tăng các nguồn vốn đầu tư khác như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước bù đắp nguồn vốn đầu tư công giảm dần theo lộ trình.

(2) Về tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước: cần ưu tiên tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp tài chính và cổ phần hóa. Đẩy nhanh hơn nữa công tác cổ phần hoá để huy động vốn của xã hội, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và có phương án sử dụng hợp lý nguồn vốn này. Xây dựng hệ thống chính sách xử lý những vấn đề lớn như: phân loại xác định danh mục ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp nhà nước, quản trị doanh nghiệp hiện đại, chính sách lương trong doanh nghiệp nhà nước, xử lý lao động dôi dư, thanh lý tài sản không sử dụng, sử dụng không hiệu quả, kế hoạch và lộ trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành sản xuất chính trong điều kiện thị trường không thuận lợi hiện nay, cân nhắc chấp nhận các khoản lỗ phát sinh.

Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chủ sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước, xây dựng và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ để hình thành một nền công nghiệp mạnh. Sớm hoàn thiện và trình Quốc hội dự án Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước.

(3) Về tái cơ cấu các ngân hàng thương mại: tập trung rà soát, đánh giá tình trạng sở hữu chéo và công khai, minh bạch hoạt động doanh nghiệp, cá nhân là cổ đông lớn, cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó của tổ chức tín dụng. Tiếp tục yêu cầu các ngân hàng thương mại tự tái cơ cấu, tăng cường trích lập đủ dự phòng rủi ro và nâng cao hoạt động hiệu quả các công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại, tăng nhanh quy mô và năng lực tài chính thông qua tăng vốn để bảo đảm đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn đến năm 2015. Tăng cường quản trị rủi ro và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra, giám sát ngân hàng. Đồng thời, tăng cường minh bạch thông tin, nhất là công khai về xử lý nợ xấu.

(4) Về tái cấu trúc thị trường chứng khoán: rà soát bổ sung, sửa đổi Luật chứng khoán hiện hành theo hướng tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các giao dịch diễn ra trên thị trường chứng khoán, không để xảy ra lũng đoạn, thôn tính không lành mạnh, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư và dư luận xã hội, nhằm bảo đảm thị trường hoạt động công khai, minh bạch và tạo cơ chế để những hàng hóa, sản phẩm mới có thể giao dịch trên thị trường. Hoàn thiện cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động của các định chế trên thị trường, về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán…

(5) Về tái cơ cấu ngành nông nghiệp: đây là lĩnh vực đầu tiên triển khai xây dựng Đề án theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, tuy nhiên, việc thực hiện mới ở giai đoạn thí điểm, tổ chức các chuỗi sản xuất một số nông sản gắn với thị trường tiêu thụ tại một số địa phương. Vì vậy, cần sơ kết các mô hình quản lý, mô hình sản xuất có hiệu quả nhằm nhân rộng phù hợp từng vùng miền để điều chỉnh chính sách phù hợp, hỗ trợ cho người dân trong việc vay vốn tín dụng, giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX phù hợp với đặc điểm diện tích đất manh mún, nguồn lực của từng người nông dân và vai trò kinh tế hộ trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hóa có hạn của nước ta hiện nay.



[1] Ví dụ: Luật đấu thầu, Luật đất đai, Luật phá sản, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật Khoa học và Công nghệ Luật đầu tư công, Luật xây dựng, Pháp lệnh ngoại hối…

[2] - Theo kinh nghiệm tái cơ cấu ngành ngân hàng, xử lý nợ xấu của Indonesia sau cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997, quốc gia này thành lập Cơ quan tái cơ cấu ngân hàng Indonesia (IBRA) với thời hạn hoạt động trong 5 năm, thuộc sự quản lý trực tiếp của một Ủy ban bao gồm Bộ Tài chính, Bộ Doanh nghiệp Nhà nước, Bộ Kinh tế phối hợp và chịu sự giám sát trực tiếp của Bộ Doanh nghiệp Nhà nước. IBRA được thành lập nhằm đánh giá, giám sát, tiếp quản, bán và đóng cửa các ngân hàng và là tổ chức duy nhất xử lý các chương trình bảo lãnh, gánh nặng thanh khoản tín dụng và gánh nặng vay liên ngân hàng, giải quyết nợ xấu ngân hàng. Tổng số ngân hàng do IBRA quản lý chiếm tới 80% tổng tài sản các ngân hàng tại Indonesia và IBRA được coi là cơ quan quyền lực nhất tại Indonesia vào thời điểm khi đó. Ngoài ra, Indonesia cũng có những sửa đổi về luật ngân hàng như đưa Ngân hàng Indonesia trở thành Ngân hàng trung ương độc lập, thực thi chính sách lạm phát mục tiêu, thả nổi tỷ giá; thiết lập một số cơ quan khác ngoài IBRA như tổ chức bảo hiểm tiền gửi, cơ quan quản lý và ứng phó với rủi ro hệ thống, cơ quan giám sát tài chính hợp nhất FSA (độc lập với NHTW Indonesia). Tuy nhiên, trên thực tế Indonesia vẫn đang trong quá trình hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của FSA, Chính phủ Indonesia đưa ra một lộ trình cho hoạt động của FSA, cụ thể như sau: 31/12/2012 việc điều tiết và giám sát thị trường vốn, các tổ chức tài chính phi ngân hàng được chuyển từ Bộ Tài chính sang FSA, từ 31/12/2013 việc điều tiết và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng được chuyển từ Ngân hàng Trung ương sang FSA.

- Tại Malaysia, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Chính phủ Malaysia ban hành Kế hoạch tổng thể về khu vực tài chính cho giai đoạn từ  năm 2001-2010 bao gồm 6 lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống ngân hàng hồi giáo, phát triển các thể chế tài chính, các định chế tài chính ở nước ngoài. Kế hoạch tổng thể được thực hiện trong 3 giai đoạn, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng mỗi giai đoạn đều áp dụng hạn chế gia nhập thị trường đối với các ngân hàng nước ngoài. Đến giai đoạn cuối, từ 2007-2010 thì hoàn thành việc tham gia vào thị trường toàn cầu, cho phép các ngân hàng nước ngoài được tham gia tự do hơn vào thị trường Malaysia để thúc đẩy cạnh tranh và đẩy mạnh vị thế của các ngân hàng Malaysia trên trường quốc tế. Chính phủ Malaysia cũng vừa phê duyệt Chiến lược phát triển ngành tài chính (Finnancial Sector Blueprint) cho giai đoạn 2011-2020. Một trong những thay đổi lớn là từ năm 2009, Ngân hàng Trung ương Malaysia được quyền giám sát tất cả các định chế tài chính bao gồm các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ tín dụng và ngân hàng hợp tác… Ngoài ra, giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính ở Malaysia đã được tăng lên. Từ  tháng 7/2013 trở đi, dỡ bỏ hoàn toàn hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài với điều kiện đáp ứng đầy đủ được 9 tiêu chuẩn do Ngân hàng Trung ương Malaysia đề ra, ví dụ: Nguồn lực tài chính, kinh nghiệm và uy tín kinh doanh, phương án kinh doanh an toàn và hiệu quả, tác động tích cực đối với nền kinh tế…

[3] Trước đó, Bộ Tài chính thực hiện Đề án “Tái cấu trúc các công ty chứng khoán” theo Quyết định 62/QĐ-BTC ngày 10/1/2012, ban hành Quyết định số 2330/QĐ-BTC ngày 18/9/2012 về “Kế hoạch triển khai thực hiện các giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015”. Tại Quyết định số 04/2011/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (Quyết định này do Bộ Tài chính chủ trì, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành) đã thể hiện nhiều nội dung về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

[4] Theo quy định tại Thông tư 117/2010/TT-BTC ngày 5/8/2010 của Bộ Tài chính và Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 11/7/2013 của Chính phủ thì việc chuyển nhượng các khoản đầu tư  tài chính phải thực hiện thông qua đấu giá công khai, trong khi đó, Điều 12 Luật chứng khoán quy định điều kiện chào bán chứng khoán là “hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán”. Như vậy, trường hợp các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ không thể chào bán cổ phần theo quy định của Luật chứng khoán.

- Theo quy định Điều 120 Luật doanh nghiệp quy định hợp đồng giao dịch giữa công ty với “Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ” phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận: Với quy định này, có hiện tượng việc sáp nhập các công ty con trong một  TĐ, TCT bị phụ thuộc vào quyết định của các cổ đông thiểu số. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng quy trình thoái vốn có nhiều thủ tục đòi hỏi mất nhiều thời gian thực hiện, ví dụ như theo quy định tại Điều 30 Nghị định 71 thì việc chuyển nhượng các khoản đầu tư tài chính của các công ty cổ phần chưa niêm yết phải thực hiện đấu giá qua Sở Giao dịch chứng khoán hoặc công ty chứng khoán và quy trình này đòi hỏi khá nhiều thủ tục (thuê tư vấn lập hồ sơ đăng ký đấu giá, trình Sở Giao dịch hồ sơ đăng ký đấu giá…)

[5] Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, sau khi giảm từ mức 4,67% vào tháng 4 xuống mức 4,46% vào tháng 6, tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối tháng 7/2013 đã tăng nhẹ trở lại và ở mức 4,58% tương ứng với quy mô 138,98 nghìn tỷ đồng. Như vậy, nợ xấu vẫn chưa thể giảm bền vững sau khi cho tín hiệu giảm nhẹ trong tháng 5 và tháng 6. So với đầu năm, nợ xấu đã tăng đáng kể, từ 4,3% lên 4,58% (tháng 1 tỷ lệ nợ xấu; tháng 2 là 4,46%; tháng 3 là 4,51%; tháng 4 là 4,67%; tháng 5 là 4,65%; tháng 6 là 4,46%; tháng 7 là 4,58%).

[6] Bao gồm: 304 cổ phiếu niêm yết trên sàn HOSE, 384 cổ phiếu niêm yết trên HNX, 138 cổ phiếu niêm yết trên UPCOM