Sản xuất công nghiệp năm 2018

Theo Tổng cục Thống kê

Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao trong tháng cuối năm. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12/2018 ước tính tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 3,2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 13,7% do đang là thời điểm các doanh nghiệp tập trung sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019; sản xuất và phân phối điện tăng 11,7%, đạt mức cao nhất kể từ tháng Tám trở lại đây chủ yếu do nhu cầu điện sản xuất và xây dựng tăng so với các tháng trước; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,6%.

Tính chung quý IV/2018, IIP ước tính tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 2,6%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,5%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,7%.

Tính chung cả năm 2018, IIP ước tính tăng 10,2% so với năm trước (quý I tăng 12,7%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 10,7%; quý IV tăng 9,4%), tuy thấp hơn mức tăng 11,3% của năm 2017 nhưng cao hơn mức tăng các năm 2012-2016.

Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng 12,3% (quý I tăng 15,7%; quý II tăng 9,6%; quý III tăng 13,1%; quý IV tăng 11,1%), mặc dù thấp hơn mức tăng 14,7% của năm 2017 nhưng cao hơn mức tăng của các năm 2012-2016, đóng góp 9,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện đảm bảo cung cấp đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của dân cư với mức tăng 10%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 11,3%), làm giảm 0,3 điểm phần trăm mức tăng chung.

Chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2016-2018 (%)

 

2016

2017

Ước tính 2018

Toàn ngành công nghiệp

107,4

111,3

110,2

Khai khoáng

93,2

95,9

98,0

Công nghiệp chế biến, chế tạo

111,3

114,7

112,3

Sản xuất và phân phối điện

111,5

108,9

110,0

Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải

108,0

107,1

106,3

 

Xét theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo) năm 2018 tăng 9% so với năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 11% (sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 6,5% và sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 13,3%).

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất năm 2018 tăng cao so với năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 65,5%; sản xuất kim loại tăng 25,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 20%; sản xuất xe có động cơ tăng 16,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 14%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 13,7%; dệt tăng 12,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 11,3%. 

Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 3,3%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 3,1%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị tăng 2,8%; khai thác quặng kim loại tăng 1,6%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 5,4% (khai thác dầu thô giảm 11,3% và khai thác khí đốt tự nhiên tăng 1,1%).

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2018 tăng cao so với năm 2017: Xăng, dầu tăng 51,2%; sắt, thép thô tăng 43,8%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 29,8%; ti vi tăng 24%; Alumin tăng 23,3%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 18,9%; thức ăn cho thủy sản tăng 17,3%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 16,2%.

Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Sữa tươi tăng 2,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 1,7%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 1,1%; thức ăn cho gia súc tăng 1%; điện thoại di động giảm 1% (điện thoại thông minh giảm 1,3%); dầu thô khai thác giảm 11,3%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018 của hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng so với năm trước, trong đó Hà Tĩnh là địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất với mức tăng 89% do đóng góp của Tập đoàn Formosa, tiếp theo là Thanh Hóa tăng 34,9% chủ yếu do Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn mới đi vào sản xuất từ giữa năm 2018. Riêng Bà Rịa - Vũng Tàu có chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018 giảm 0,5% so với năm 2017 do khai thác dầu thô tiếp tục giảm.

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018 so với năm 2017 của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 25,2%; Vĩnh Phúc tăng 15,2%; Thái Nguyên tăng 12,1%; Hải Dương tăng 10,2%; BìnhDương tăng 9,8%; Đồng Nai tăng 9%; Quảng Ninh tăng 8,9%; Cần Thơ tăng 8,1%; Bắc Ninh và thành phố Hồ Chí Minh cùng tăng 8%; Hà Nội tăng 7,5%; Đà Nẵng tăng 6,7%; Quảng Nam tăng 4,7%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2018 tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2018, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 12,4% so với năm trước (năm 2017 tăng 10,2%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 60,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 27%; sản xuất kim loại tăng 19%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 16,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 16,1%... 

Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp: Sản xuất thiết bị điện tăng 5,7%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 5,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 3,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 2,7%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2018 tăng 14,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2017 tăng 9,5%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 2,8%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 1,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 0,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) giảm 5,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 11,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 19,2% do khối lượng sản xuất một số sản phẩm của ngành sản xuất thiết bị truyền thông giảm mạnh.

Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 477,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 224,3%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 83,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 78,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 51,4%; sản xuất kim loại tăng 43%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân năm 2018 là 64,4%, đạt mức tồn kho thấp nhất trong những năm gần đây. Một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Dệt 273,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) 106,7%; sản xuất, chế biến thực phẩm 73,6%; sản xuất xe có động cơ 73,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 71,8%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/12/2018 tăng 2,6% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2017 tăng 5,1%), trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 2,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,3%.

Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,8%; ngành sản xuất, phân phối điện bằng thời điểm năm trước; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.

Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/12/2018 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 9%; Đồng Nai tăng 4,4%; Hải Dương tăng 3,8%; Quảng Ninh tăng 3,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 2,9%; Hà Nội tăng 2,2%; Bình Dương tăng 1,8%; Cần Thơ và Quảng Nam cùng tăng 1,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1%; Thái Nguyên tăng 0,6%; Vĩnh Phúc giảm 3,1%; Bắc Ninh giảm 7,3%; Đà Nẵng giảm 15,6%.