Tình hình kinh tế - xã hội 8 tháng năm 2012

Theo Tổng cục Thống kê

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản                  

a. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa mùa, lúa thu đông và thu hoạch lúa hè thu. Tính đến 15/8/2012, cả nước đã gieo cấy được 1431,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 100,5% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đã kết thúc gieo cấy với diện tích đạt 1151,9 nghìn ha, bằng 101%; các địa phương phía Nam gieo cấy 279,5 nghìn ha, bằng 98,4%.

Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1174,6 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 55,6% diện tích gieo cấy và bằng 96,2% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1089,4 nghìn ha, chiếm 65% diện tích gieo cấy và bằng 95,4%. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu năm 2012 của vùng đồng bằng sông Cửu Long ước tính đạt 52,7 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha so với vụ hè thu năm trước do thời tiết vụ hè thu năm nay thay đổi thất thường nên bệnh đạo ôn phát triển mạnh với gần 189 nghìn ha lúa nhiễm bệnh, tăng 20% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng lúa hè thu toàn vùng ước tính đạt 8,9 triệu tấn, tăng 118 nghìn tấn (do diện tích tăng 29,2 nghìn ha).

Đến trung tuần tháng Tám, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đã gieo cấy được 362,5 nghìn ha lúa thu đông, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh đạt khá như: Kiên Giang đạt 62,3 nghìn ha, bằng 137,7%; Vĩnh Long 61 nghìn ha, bằng 115,7%; Hậu Giang 60 nghìn ha, bằng 114,6%.

Tiến độ gieo trồng cây hoa màu nhìn chung chậm hơn so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân do thời tiết mưa nhiều. Trước tình hình đó, người nông dân chuyển sang trồng rau, đậu là loại cây dễ trồng, phù hợp với thời tiết và cho thu hoạch nhanh. Tính đến giữa tháng Tám, cả nước đã gieo trồng được 903,6 nghìn ha ngô, bằng 94,2% cùng kỳ năm trước; 113,4 nghìn ha khoai lang, bằng 86,2%; 98,3 nghìn ha đậu tương, bằng 58,4%; 193,5 nghìn ha lạc, bằng 90,8%; 782,1 nghìn ha rau, đậu, bằng 103,9%.

Chăn nuôi trong tháng gặp khó khăn do giá bán sản phẩm vẫn ở mức thấp, dịch tai xanh trên lợn và dịch cúm gia cầm còn diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi và khả năng tái đàn. Tính đến ngày 26/8/2012, dịch lở mồm long móng trên trâu, bò đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh: Dịch cúm gia cầm ở Bắc Kạn, Nam Định, Hải Phòng, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình; dịch tai xanh trên lợn ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An và Đắk Lắk.

b. Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Tám ước tính đạt 27 nghìn ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 13,7 triệu cây, tăng 1,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 476,1 nghìn m3, tăng 10,2%; sản lượng củi khai thác đạt 2,7 triệu ste, tăng 2,1%. Tính chung tám tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 114,9 nghìn ha, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 138,8 triệu cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3104,9 nghìn m3, tăng 11,6%; sản lượng củi khai thác đạt 19,6 triệu ste, tăng 2,6%.

Thời tiết nắng nóng, khô hạn vẫn tiếp diễn ở khu vực Trung bộ nên hiện tượng cháy rừng đã xảy ra ở một số địa phương, trong tháng Tám có 249 ha rừng bị cháy. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy lớn là: Thừa Thiên Huế 74,3 ha; Nghệ An 59,8 ha; Phú Yên 35,2 ha; Quảng Ngãi 15 ha. Tình trạng chặt, phá rừng trái phép còn xuất hiện rải rác tại một số nơi thuộc Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, trong tháng Tám có 61 ha rừng bị chặt phá. Tính chung tám tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 2600 ha, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 1915 ha; diện tích rừng bị chặt, phá là 685 ha.

c. Thuỷ sản

Sản lượng thuỷ sản tháng Tám ước tính đạt 483,5 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 339,6 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm 88 nghìn tấn, tăng 2,7%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Tám ước tính đạt 274,7 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 183,6 nghìn tấn, tăng 2%; tôm 71 nghìn tấn, tăng 3%. Nuôi trồng cá tra gặp khó khăn cả về sản xuất và tiêu thụ do chi phí thuốc thú y thủy sản, giá xăng dầu tăng, lãi suất ngân hàng cao. Với mức giá khoảng 21 nghìn đồng/kg như hiện nay thì người nuôi đang lỗ khoảng 1-2 nghìn đồng/kg. Trong nuôi tôm, dịch bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy lan rộng trên các diện tích nuôi tôm công nghiệp đã làm sản lượng thu hoạch tôm tại một số địa phương giảm như: Phú Yên giảm 33%; Kiên Giang giảm 17%; Sóc Trăng giảm 15%; Bến Tre giảm 8,7%. Tuy nhiên, hai tỉnh nuôi tôm nhiều chiếm tỷ trọng lớn trong cả nước là Cà Mau và Bạc Liêu vẫn duy trì sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau ước tính đạt 11,5 nghìn tấn, tăng 15%; Bạc Liêu đạt 5,4 nghìn tấn, tăng 6,8%.

Tuy thời tiết có mưa bão nhiều ở Vịnh Bắc Bộ, nhưng không ảnh hưởng lớn đến tình hình khai thác tại ngư trường phía Nam. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tám ước tính đạt 208,8 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 188,5 nghìn tấn, tăng 2,8%. Tính chung tám tháng năm 2012, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 3662,6 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Sản lượng nuôi trồng đạt 2004,3 nghìn tấn, tăng 5,8%; sản lượng khai thác đạt 1658,3 nghìn tấn, tăng 3,8%.

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8/2012 tăng 4,1% so với tháng trước và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,9%, đóng góp 1 điểm phần trăm vào mức tăng của toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,9%, đóng góp 2,7 điểm phần trăm; sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 12,7%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tám tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 150,7%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 64,1%; sản xuất phụ tùng xe có động cơ tăng 43,8%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 29,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 18,6%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 16,3%; sản xuất đường tăng 13,8%; khai thác dầu thô tăng 13,6%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 12,8%. Các ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Sản xuất bia tăng 9,8%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 9,6%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,4%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 9,2%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 8,5%; sản xuất sợi tăng 8%.

Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 3,3%; sản xuất thuốc lá tăng 1,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 1,5%; khai thác than cứng giảm 1,8%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 2,5%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 5,1%; sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân phối và điều khiển điện giảm 5,7%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét giảm 6,5%; sản xuất xi măng giảm 7,6%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn và bao bì từ giấy giảm 8,8%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 12,9%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 16%; sản xuất xe có động cơ giảm 16,7%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 17,9%; khai thác đá, cát, sỏi, đất sét và cao lanh giảm 21,8%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn tám tháng năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: Bắc Ninh tăng 26,3%; Bình Dương tăng 8,8%; Đồng Nai tăng 7%; Hải Phòng tăng 5,7%; Đà Nẵng tăng 5,7%; Hà Nội tăng 4,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 4%; Cần Thơ tăng 3,2%; Hải Dương giảm 0,8%; Vĩnh Phúc giảm 8,2%.

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến bảy tháng đầu năm tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 47,8%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 43%; sản xuất sợi tăng 38,3%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 29,5%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 22,9%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 21,8%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 21,1%; sản xuất đường tăng 16,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: May trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 5,6%; sản xuất mỳ ống, mỳ sợi tăng 1,8%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 1,8%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 5,9%; sản xuất bia giảm8%; sản xuất bê tông và các sản phẩm khác từ xi măng, thạch cao giảm 8,7%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 9,4%; sản xuất pin và ắc qui giảm 9,8%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 16%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 17,9%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 20,5%; sản xuất giày, dép giảm 23,3%; sản xuất xe có động cơ giảm 23,3%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 30,6%; sản xuất dây, cáp điện giảm 62,2%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/8/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,8% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 81,6%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 69,2%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 61,9%; sản xuất xi măng tăng 50,6%; sản xuất pin và ắc qui tăng 40,2%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 34,5%; sản xuất bia tăng 28,8%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 24,6%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 22,2%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất xe có động cơ tăng 11,1%; sản xuất mỳ ống, mỳ sợi tăng 10,8%; sản xuất giày, dép tăng 9,1%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 7,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 6,9%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 5,2%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,2%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 1,1%; sản xuất vải dệt thoi giảm 8,7%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 10,9%; sản xuất đường giảm 50,5%.

3. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám năm 2012 ước tính đạt 19576 tỷ đồng, bao gồm: Vốn Trung ương 4611 tỷ đồng; vốn địa phương 14965 tỷ đồng. Tính chung tám tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 125 nghìn tỷ đồng, bằng 60,2% kế hoạch năm và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có: 

- Vốn trung ương quản lý đạt 30,9 nghìn tỷ đồng, bằng 60,7% kế hoạch năm và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 4639 tỷ đồng, bằng 62,2% và tăng 9,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2805 tỷ đồng, bằng 58% và tăng 5,9%; Bộ Xây dựng 1028 tỷ đồng, bằng 56,4% và tăng 5,8%; Bộ Y tế 694 tỷ đồng, bằng 62,4% và tăng 6,6%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 576 tỷ đồng, bằng 61,9% và tăng 4,4%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 396 tỷ đồng, bằng 62,5% và tăng 3,6%; Bộ Công Thương 273 tỷ đồng, bằng 60,6% và tăng 7%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 94,1 nghìn tỷ đồng, bằng 60% kế hoạch năm và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2011. Một số địa phương có vốn đầu tư thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 11341 tỷ đồng, bằng 47,6% kế hoạch năm và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2011; thành phố Hồ Chí Minh 9641 tỷ đồng, bằng 60% và tăng 13,9%; Đà Nẵng 5343 tỷ đồng, bằng 77,5% và tăng 13,6%; Quảng Ninh 2603 tỷ đồng, bằng 62,6% và giảm 2,5%; Thanh Hóa 2344 tỷ đồng, bằng 62,4% và giảm 0,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2027 tỷ đồng, bằng 53,6% và tăng 20,4%; Bình Dương 1858 tỷ đồng, bằng 50,3% và tăng 3,8%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/8/2012 đạt 8479 triệu USD, bằng 66,1% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 672 dự án được cấp phép mới đạt 5524,4 triệu USD, bằng 80,5% số dự án và bằng 56,5% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 244 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 2954,6 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tám tháng năm 2012 ước tính đạt 7,3 tỷ USD, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2011.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tám tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 5747,7 triệu USD, chiếm 67,8% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1727 triệu USD, chiếm 20,4%; các ngành còn lại đạt 1004,3 triệu USD, chiếm 11,8%.

Trong 8 tháng cả nước có 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1462,2 triệu USD, chiếm 26,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 1037,5 triệu USD, chiếm 18,8%; Đồng Nai 591,9 triệu USD, chiếm 10,7%; thành phố Hồ Chí Minh 396,7 triệu USD, chiếm 7,2%; Quảng Ninh 390,4 triệu USD, chiếm 7,1%; Ninh Bình 186,6 triệu USD, chiếm 3,4%; Khánh Hòa 180,3 triệu USD, chiếm 3,3%.

Trong số 46 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam tám tháng, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3598,5 triệu USD, chiếm 65,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 420,7 triệu USD, chiếm 7,6%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 418,5 triệu USD, chiếm gần 7,6%; Hàn Quốc 391,8 triệu USD, chiếm 7,1%; CHND Trung Hoa 197,3 triệu USD, chiếm 3,6%; Đài Loan 87 triệu USD, chiếm 1,6%.

4. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/8/2012 ước tính đạt 418,5 nghìn tỷ đồng, bằng 56,5% dự toán năm, trong đó thu nội địa 268,6 nghìn tỷ đồng, bằng54,3%; thu từ dầu thô 70,8 nghìn tỷ đồng, bằng 81,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 75 nghìn tỷ đồng, bằng 48,7%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 90 nghìn tỷ đồng, bằng 57,9% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 49,9 nghìn tỷ đồng, bằng 51,1%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 55 nghìn tỷ đồng, bằng 49,5%; thuế thu nhập cá nhân 30,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,2%; thuế bảo vệ môi trường 7,7 nghìn tỷ đồng, bằng 58,6%; thu phí, lệ phí 4,8 nghìn tỷ đồng, bằng 53,1%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/8/2012 ước tính đạt 534 nghìn tỷ đồng, bằng 59,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 106,2 nghìn tỷ đồng, bằng 59% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 102,1 nghìn tỷ đồng, bằng 58,7%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 365 nghìn tỷ đồng, bằng 60,7%; chi trả nợ và viện trợ 62,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9%.

5. Thương mại, giá cả và dịch vụ

a. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1517,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng6,8%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tám tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1171,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,2% tổng mức và tăng 17%; khách sạn nhà hàng đạt 179,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% và tăng 19,9%; dịch vụ đạt 150,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và tăng 21,1%; du lịch đạt 16,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 31,3%.

b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám ước tính đạt 9,8 tỷ USD, giảm 3,8% so với tháng trước và tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 73,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 27,7 tỷ USD, giảm 1,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 45,6 tỷ USD, tăng 34,1%.

Trong tám tháng năm nay, một số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 7,3 tỷ USD, tăng 134,3%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD, tăng 83,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,6 tỷ USD, tăng 34,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3 tỷ USD, tăng 47%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3 tỷ USD, tăng 20,2%; cà phê đạt 2,7 tỷ USD, tăng 27,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 1 tỷ USD, tăng 18,5%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 968 triệu USD, tăng 41,9%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu có kim ngạch tăng khá như: Hàng dệt may đạt 9,7 tỷ USD, tăng 7%; dầu thô đạt 5,5 tỷ USD, tăng 9,3%; giày dép đạt 4,8 tỷ USD, tăng 13,4%; thủy sản đạt 3,9 tỷ USD, tăng 4,1%. Riêng kim ngạch xuất khẩu gạo và than đá tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó gạo xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD, giảm 9,1%, chủ yếu do giá thế giới giảm (lượng xuất khẩu tương đương cùng kỳ); than đá đạt 769 triệu USD, giảm 30,2% (lượng giảm 23,8%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu tám tháng, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt gần 13 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là EU đạt 12,5 tỷ USD, tăng 21,8%; ASEAN đạt 10,8 tỷ USD, tăng 22,8%; Nhật Bản đạt 8,6 tỷ USD, tăng 32,3%; Trung Quốc đạt 8,2 tỷ USD, tăng 20,5%.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám ước tính đạt gần 10 tỷ USD, tăng 3,5% so với tháng trước và giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 73,4 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 34,8 tỷ USD, giảm 8,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 38,6 tỷ USD, tăng 25,5%.

Trong tám tháng năm nay, một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,8 tỷ USD, tăng 6,4%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 8 tỷ USD, tăng 88,7%; vải đạt 4,5 tỷ USD, tăng 1,2%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 3 tỷ USD, tăng 101,3%; nguyên phụ liệu dệt may giày, dép đạt 2 tỷ USD, tăng 2,8%; hóa chất đạt 1,9 tỷ USD, tăng 3,9%; sản phẩm hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 1,8%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,3 tỷ USD, tăng 24,8%; tân dược đạt 1,2 tỷ USD, tăng 18,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 6,3 tỷ USD, giảm 6,9%; kim loại thường đạt 1,7 tỷ USD, giảm 7,8%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,5 tỷ USD, giảm 6,1%; ô tô đạt 1,4 tỷ USD, giảm 34,4%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 385 triệu USD, giảm 50,6%; phân bón đạt 1 tỷ USD, giảm 2,6%; sợi dệt đạt 902 triệu USD, giảm 13,6%; bông đạt 591 triệu USD, giảm 22,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 643 triệu USD, giảm 7,9%.

Về thị trường nhập khẩu trong tám tháng năm nay, Trung Quốc là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 18,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2011; ASEAN đạt 13,7 tỷ USD, tăng 1,8%; Hàn Quốc đạt 9,8 tỷ USD, tăng 18,8%; Nhật Bản đạt 7,7 tỷ USD, tăng 15,5%; EU đạt 5,2 tỷ USD, tăng 6,6%; Hoa kỳ đạt 3,2 tỷ USD, tăng 7,6%.

Nhập siêu tháng Tám ước tính 150 triệu USD, bằng 1,5% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu tám tháng năm 2012 là 62 triệu USD, bằng 0,08% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.

c. Chỉ số giá tiêu dùng

Sau hai tháng giảm liên tiếp, chỉ số giá tiêu dùng tháng Tám tăng 0,63% so với tháng trước, nguyên nhân chủ yếu do tác động của 3 đợt điều chỉnh tăng giá xăng dầu vừa qua (trong các ngày 20/7, 01/8 và 13/8/2012) với tổng cộng mỗi lít xăng tăng 2400 đồng/lít, dầu diezen tăng 1650 đồng/lít); giá ga tăng 8,02% và một số tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/02/2012 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 5,44% (riêng dịch vụ y tế tăng 7,71%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,03%; giao thông tăng 1,07%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,95%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57% ; giáo dục tăng 0,48% ; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,35%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,24%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,18% (Lương thực giảm 0,43%; thực phẩm giảm 0,27%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,35%).

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2012 tăng 2,86% so với tháng 12/2011 và tăng 5,04% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân tám tháng năm 2012 tăng 10,41% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá vàng tháng 8/2012 tăng 0,41% so với tháng trước; giảm 7,42% so với tháng 12/2011 và giảm 0,38% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2012 giảm 0,15% so với tháng trước; giảm 1% so với tháng 12/2011 và tăng 0,89% so với cùng kỳ năm 2011.

d. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tám tháng năm 2012 ước tính đạt 1891,2 triệu lượt khách, tăng 12,4% và 81,5 tỷ lượt khách.km, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 28,9 triệu lượt khách, tăng 9,3% và 20 tỷ lượt khách.km, tăng 8,1%; vận tải địa phương đạt 1862,3 triệu lượt khách, tăng 13,4% và 61,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,3%. Vận tải hành khách đường bộ tám tháng ước tính đạt 1748,3 triệu lượt khách, tăng 13,5% và 60,2 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 120,9 triệu lượt khách, giảm 1,3% và 2,7 tỷ lượt khách.km, giảm 1,7%; đường hàng không đạt 9,5 triệu lượt khách, tăng 1% và 15,3 tỷ lượt khách.km, tăng 8,6%; đường sắt đạt 8,5 triệu lượt khách, tăng 2,4% và 3,2 tỷ lượt khách.km, tăng 1,9%; đường biển đạt 4 triệu lượt khách, tăng 0,6% và 228,6 triệu lượt khách.km, tăng 1,5%.

Vận tải hàng hóa tám tháng ước tính đạt 640,4 triệu tấn, tăng 9,9% và 120,8 tỷ tấn.km, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 615 triệu tấn, tăng 11,8% và 46,4 tỷ tấn.km, tăng 1%; vận tải ngoài nước đạt 25,4 triệu tấn, giảm 14,7% và 74,4 tỷ tấn.km, giảm 16,4%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 504 triệu tấn, tăng 12,5% và 26,5 tỷ tấn.km, tăng 9,4%; đường sông đạt 101,5 triệu tấn, tăng 5,3% và 10,2 tỷ tấn.km, tăng 5,1%; đường biển đạt 30,2 triệu tấn, giảm 16% và 81,1 tỷ tấn.km, giảm 20%; đường sắt đạt 4,6 triệu tấn, giảm 5,8% và 2,7 tỷ tấn.km, giảm 4,2%.

e. Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới tám tháng năm 2012 ước tính đạt 7655 nghìn thuê bao, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 15,7 nghìn thuê bao cố định, bằng 39% cùng kỳ và 7639,4 triệu thuê bao di động, tăng 14%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 8/2012 ước tính đạt 135,8 triệu thuê bao, tăng5,2% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,1 triệu thuê bao cố định, giảm 2,6% và 120,7 triệu thuê bao di động, tăng 6,2%.

Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng 8/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 15,6% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông tám tháng năm nay ước tính đạt 105 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2011.

f. Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta tám tháng năm nay ước tính đạt 4385 nghìn lượt người, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2604,4 nghìn lượt người, tăng 7,1%; đến vì công việc 762,2 nghìn lượt người, tăng 14%; thăm thân nhân đạt 773,3 nghìn lượt người, tăng 14,7%.

Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Hàn Quốc 480,3 nghìn lượt người, tăng 34,4%; Nhật Bản 376,3 nghìn lượt người, tăng 18,9%; Đài Loan 288,2 nghìn lượt người, tăng 15%; Ma-lai-xi-a 189,6 nghìn lượt người, tăng 23,2%; Pháp 158,5 nghìn lượt người, tăng 6,4%; Thái Lan 140,6 nghìn lượt người, tăng 19,6%. Một số nước có lượng khách đến nước ta lớn nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 893,5 nghìn lượt người,giảm 1,9%; Hoa Kỳ 309,9 nghìn lượt người, giảm 0,8%; Cam-pu-chia 212,1 nghìn lượt người, giảm 23,9%; Ôx-trây-li-a 190 nghìn lượt người, giảm 4,6%.

6. Một số vấn đề xã hội

a. Thiếu đói trong nông dân

Theo báo cáo sơ bộ, trong tháng Tám cả nước có 11,9 nghìn hộ thiếu đói, chiếm 0,1% tổng số hộ nông nghiệp, giảm 21,4% so với tháng trước, tương ứng 55 nghìn nhân khẩu thiếu đói, chiếm 0,1% tổng số nhân khẩu nông nghiệp, giảm 17%. So với tháng 8/2011, số hộ thiếu đói giảm 36% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 35%. Thiếu đói trong tháng tập trung chủ yếu tại các tỉnh vùng Trung du, miền núi phía Bắc; Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, trong đó Lai Châu có số hộ thiếu đói chiếm 1,62% tổng số hộ nông nghiệp của tỉnh; Nghệ An chiếm 1,94%; Gia Lai chiếm 0,22%. 

b. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng Tám, cả nước có 11,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân, miệng (6 trường hợp tử vong); 9,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (9 trường hợp tử vong); 18 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (2 trường hợp tử vong) và 23 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Tính chung tám tháng năm 2012, cả nước có 76,6 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (41 trường hợp tử vong); trên 38 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (29 trường hợp tử vong); 370 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (7 trường hợp tử vong) và 76 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong) và 250 trường hợp mắc bệnh thương hàn.

Trong tháng đã phát hiện thêm 946 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng 8/2012 lên 258,7 nghìn người, trong đó 105,6 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và gần 53,6 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Trong tháng Tám, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 17 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 786 trường hợp bị ngộ độc, trong đó 1 trường hợp tử vong. Tính chung tám tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 91 vụ ngộ độc thực phẩm, làm hơn 3,2 nghìn trường hợp bị ngộ độc, trong đó 17 trường hợp tử vong.

c. Tai nạn giao thông

Trong tháng Tám (Từ 16/7 đến 15/8/2012), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 859 vụ tai nạn giao thông, làm chết 755 người và làm bị thương 612 người. Riêng tai nạn giao thông đường bộ chiếm 95,1% về số vụ; 97,4% về số người chết và 95,3% về số người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 20,6%; số người chết giảm 18,5%; số người bị thương giảm 27,9%. Tính chung tám tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7024 vụ tai nạn giao thông, làm chết 6128 người và làm bị thương 5102 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,7%; số người chết giảm 18,8%; số người bị thương giảm 26,4%. Bình quân một ngày trong tám tháng năm 2012, trên địa bàn cả nước xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người và làm bị thương 21 người.

d. Thiệt hại do thiên tai

Thiên tai xảy ra trong tháng như: Bão, lũ, mưa lớn, lốc, sét đánh và sạt lở đất đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa phương trong cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 67 người chết và mất tích, 153 người bị thương; hơn 800 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 16,7 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; gần 31,2 nghìn ha lúa và 3,6 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Các địa phương bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Hà Giang, Sơn La, Bình Định với tổng số 21 người chết và mất tích; Vĩnh Phúc, Yên Bái gần 12 nghìn ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái; Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Phú Thọ trên 21 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính là 444 tỷ đồng, trong đó Sơn La thiệt hại nhiều nhất với trên 150 tỷ đồng.

e. Tình hình bảo vệ môi trường

Trong tháng Tám đã phát hiện 342 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường tại 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 307 vụ đã bị xử lý với tổng số tiền phạt gần 1,7 tỷ đồng. Bình Định là tỉnh có số vụ vi phạm môi trường được phát hiện và xử lý nhiều nhất với 89 vụ, chủ yếu liên quan đến chặt phá rừng trái pháp luật, vi phạm thủ tục hành chính trong vận chuyển lâm sản, mua bán, cất giữ lâm sản trái phép.