Tình hình kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2012

Tổng cục Thống kê

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp tháng Một tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa đông xuân và gieo trồng cây vụ đông trên cả nước. Tính đến ngày 15/01/2012, cả nước đã gieo cấy được 1856,8 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 95,3% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 89,9 nghìn ha, bằng 103,8%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1766,9 nghìn ha, bằng 94,9%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1446,2 nghìn ha, bằng 96,7%.

Tại các địa phương phía Bắc, do ảnh hưởng của thời tiết chuyển rét đậm nên một số diện tích mạ và lúa mới cấy tại một số địa phương bị ảnh hưởng (Quảng Bình có 1185,3 ha lúa bị hỏng, Hà Tĩnh 10414 ha mạ và lúa). Để phòng, chống rét và cung cấp đủ nước tưới cho cây lúa, các địa phương tích cực thực hiện các biện pháp kỹ thuật và tập trung nạo vét kênh mương, nâng cấp, sửa chữa hệ thống bơm tưới nhằm bảo đảm gieo cấy lúa đông xuân kịp thời vụ.

Tại các địa phương phía Nam, tiến độ gieo cấy lúa đông xuân năm nay chậm hơn so với năm trước, chủ yếu do ảnh hưởng của triều cường dâng cao gây ngập úng và nước rút chậm. Hiện nay, phần lớn các trà lúa đang trong giai đoạn mạ non đẻ nhánh và thời kỳ ngậm sữa, làm đòng. Tuy nhiên, thời tiết se lạnh tại thời điểm này dễ làm phát sinh dịch bệnh trên lúa, đặc biệt là bệnh rầy nâu, đạo ôn, ốc bươu vàng và sâu cuốn lá. Các địa phương cần chủ động phun thuốc phòng trừ sâu bệnh, đồng thời có kế hoạch theo dõi để kịp thời có biện pháp phòng trừ hiệu quả, nhằm hạn chế ảnh hưởng của dịch bệnh đến sản lượng cây trồng.

Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến trung tuần tháng Một, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 212 nghìn ha ngô, bằng 97,6% cùng kỳ năm trước; 53,8 nghìn ha khoai lang, bằng 77,3%; 92 nghìn ha đậu tương, bằng 96,1%; 259 nghìn ha rau, đậu, bằng 102,1%.

Chăn nuôi tại các địa phương phía bắc bị ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại đầu năm nên xảy ra hiện tượng trâu, bò của một số địa phương bị chết (Yên Bái chết 101 con; Bắc Kạn 113 con). Chăn nuôi lợn và gia cầm tương đối ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của dân cư trong dịp Tết Nguyên đán do không có dịch bệnh lớn bùng phát. Tính đến ngày 29/01/2012, trên địa bàn cả nước không còn các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm chưa qua 21 ngày.

  Tiến độ gieo trồng cây nông nghiệp đến ngày 15 tháng 01 năm 2012

Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng đã trồng trong năm 2011; triển khai công tác chuẩn bị cho trồng rừng vụ xuân năm 2012 và phát động phong trào Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Nhâm Thìn 2012. Trong tháng Một năm nay, số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 559,6 nghìn cây, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm 2011; gỗ tròn khai thác 336 nghìn m3, tăng 12%; củi khai thác 2457 nghìn ste, tăng 3,2%.

Thời tiết đang mùa khô hạn là nguyên nhân cảnh báo xảy ra cháy rừng. Theo kết quả khảo sát, một số tỉnh có khu vực nguy cơ cháy rừng ở cấp IV, cấp nguy hiểm và cấp V, cấp cực kỳ nguy hiểm là: Đồng Nai, Bình Thuận, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Nghệ An. Các địa phương đang tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống cháy rừng để chủ động ứng phó kịp thời khi tình huống xảy ra. Nhiều hình thức được triển khai nhằm nâng cao ý thức bảo vệ rừng cho người dân như: Tổ chức hoạt động tuyên truyền tại các địa bàn trọng điểm, đặc biệt tại các tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; mở các lớp tập huấn phòng cháy, chữa cháy rừng; kiểm tra, rà soát củng cố lại các tổ, đội phòng cháy, chữa cháy rừng ở cơ sở... Trong kỳ, tình trạng khai thác rừng trái phép vẫn xảy ra rải rác trên một số địa bàn vùng sâu, chủ yếu tại các tỉnh vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Tổng số vụ chặt, phá rừng bị phát hiện và xử lý là 29 vụ, diện tích rừng bị chặt, phá là trên 7 ha.

Thủy sản

Sản lượng thuỷ sản tháng Một ước tính đạt 364,2 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 276 nghìn tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 32,4 nghìn tấn, tăng 4,9%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Một ước tính đạt 172 nghìn tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 129 nghìn tấn, tăng 6,6%; tôm đạt 23 nghìn tấn, tăng 7%. Nuôi trồng thủy sản trong tháng tăng khá do các hộ đẩy mạnh đầu tư thâm canh để kịp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán.

Giá cá tra nguyên liệu trên thị trường mặc dù đang theo hướng có lợi cho người nuôi nhưng tiến độ thu mua cá tra nguyên liệu chế biến chậm dẫn đến lượng cá tra thu hoạch giảm so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng cá tra thu hoạch trong tháng ước tính đạt 75 nghìn tấn, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó An Giang đạt 26 nghìn tấn, giảm 30%; Đồng Tháp 21 nghìn tấn, giảm 4%. Ngược lại, nuôi tôm khá ổn định, đặc biệt nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh ở nhiều địa phương, nhất là vùng Duyên hải miền Trung và có xu hướng phát triển nhanh tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

 Hoạt động khai thác thuỷ sản trong tháng giảm, một mặt do ảnh hưởng của gió mùa làm biển động mạnh, mặt khác do ngư dân nghỉ ra khơi đánh bắt để đón Tết, đồng thời tranh thủ tu bổ tàu, thuyền chuẩn bị cho kỳ đánh bắt dài ngày tiếp theo. Sản lượng thuỷ sản khai thác tháng Một ước tính đạt 192,2 nghìn tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 147 nghìn tấn, giảm 1,6%; tôm 8,8 nghìn tấn, bằng mức cùng kỳ năm 2011. Trong năm 2012, các địa phương tiếp tục thực hiện Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ xăng dầu cho tàu có công suất lớn khai thác trên vùng biển xa để bà con ngư dân yên tâm bám biển.

Sản xuất công nghiệp

Do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán năm nay tương đối dài nên sản xuất công nghiệp bị ảnh hưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01/2012 giảm 12,9% so với tháng trước và giảm 2,4% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Công nghiệp khai thác mỏ tăng 0,5%; công nghiệp chế biến giảm 4,2%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 1,2%.

Các ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tháng Một tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 12,5%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 10,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 9,9%; khai thác, lọc và phân phối nước tăng 9,6%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 9,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,6%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 5,5%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất đồ uống không cồn tăng 4%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 3,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,5%; sản xuất bia tăng 0,4%; sản xuất thuốc lá giảm 4,7%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 7,7%; giày, dép giảm 10,1%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) giảm 10,3%; sản xuất xi măng giảm 11,5%; sản xuất đường giảm 13,7%; sản xuất sắt, thép giảm 21,5%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 27,9%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) giảm 32,3%.

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 15,8% so với năm 2010. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 183,3%; sản xuất đường tăng 38,3%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 31,8%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 16,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,2%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất trang phục (trừ quần áo da, lông thú) tăng 15,4%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 10,1%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 9,9%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 9,2%; sản xuất giày, dép tăng 5,3%; sản xuất xi măng tăng 3,1%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 6%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/01/2012 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 72,7%; sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào tăng 54,8%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 36,5%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 31,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh là: Sản xuất giấy nhăn và bao bì giảm 9,2%; sản xuất xe có động cơ giảm 17,1%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 20,8%; sản xuất đường giảm 23,7%.

  Chỉ số sản xuất công nghiệp

  Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tháng 01/2012 ước tính đạt 11245 tỷ đồng, bằng 6,6% kế hoạch năm và giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm:

- Vốn trung ương quản lý đạt 2355 tỷ đồng, bằng 4,6% kế hoạch năm và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 446 tỷ đồng, bằng 6% và tăng 7,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 196 tỷ đồng, bằng 4,1% và tăng 5,9%; Bộ Xây dựng 62 tỷ đồng, bằng 3,4% và giảm 4,6%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 54 tỷ đồng, bằng 5,8% và giảm 6,9%; Bộ Y tế 52 tỷ đồng, bằng 4,7% và giảm 1,9%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 32 tỷ đồng, bằng 5,1% và giảm 5,9%; Bộ Công Thương 21 tỷ đồng, bằng 4,6% và giảm 2,4%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 8890 tỷ đồng, bằng 7,4% kế hoạch năm và giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 924 tỷ đồng, bằng 4,5% kế hoạch năm và giảm 9,7% so với cùng kỳ năm 2011; Thành phố Hồ Chí Minh 543 tỷ đồng, bằng 3,6% và giảm 14,5%; Đà Nẵng 388 tỷ đồng, bằng 8% và tăng 16,4%; Quảng Ninh 302 tỷ đồng, bằng 10,1% và giảm 7,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu 293 tỷ đồng, bằng 9,8% và tăng 3,2%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài tháng 01/2012 đạt 37,3 triệu USD, bằng 2,5% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 25 dự án được cấp phép mới đạt 29,5 triệu USD, bằng 33,8% số dự án và bằng 2,4% số vốn so với cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 5 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 7,8 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tháng Một ước tính đạt 400 triệu USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2011.

Trong tháng 01/2012, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 27,1 triệu USD vốn đăng ký, bao gồm: 26,8 triệu USD của 14 dự án cấp phép mới và 0,3 triệu USD vốn tăng thêm; ngành xây dựng đạt 8,4 triệu USD, bao gồm: 1,4 triệu USD vốn đăng ký mới và 7 triệu USD vốn tăng thêm.

Cả nước có 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong tháng Một năm nay, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh có số vốn đăng ký lớn nhất với 13 triệu USD, chiếm 44,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Thanh Hóa 3,5 triệu USD, chiếm 11,9%; Hà Nam 3,2 triệu USD, chiếm 10,9%; Hưng Yên 3 triệu USD, chiếm 10,2%.

Trong số 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới trong tháng, Pháp là nhà đầu tư lớn nhất với 10 triệu USD, chiếm 34% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nhật Bản 8,1 triệu USD, chiếm 27,4%; Hàn Quốc 5,4 triệu USD, chiếm 18,4%; Xin-ga-po 2 triệu USD, chiếm 6,8%...

  Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước

Thương mại, giá cả và dịch vụ

Thị trường hàng hóa  phục vụ Tết Nguyên đán

Để bảo đảm nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng cao của dân cư trong dịp Tết Nguyên đán, các cơ sở kinh doanh trên cả nước tập trung làm tốt công tác chuẩn bị với lượng hàng khá đầy đủ; chủng loại đa dạng, phong phú; chất lượng bảo đảm; giá cả ổn định. Đặc biệt tại các siêu thị lớn, hàng hóa dồi dào với nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn đã thu hút được lượng lớn người tiêu dùng tham gia mua sắm. Tại các địa phương, nhiều quầy hàng và điểm bán hàng được mở tăng cường tới tận vùng sâu, vùng xa nhằm tạo thuận lợi cho các hộ tiếp cận và mua hàng. Điểm nổi bật của thị trường hàng hóa Tết năm nay là sản phẩm được sản xuất trong nước chiếm thị phần khá cao, với mức khoảng 80-90% tại các siêu thị và trung tâm thương mại lớn.

Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 01/2012 ước tính đạt 191,1 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một tăng 4%, thấp hơn mức tăng 8,7% của tháng Tết năm trước do nền kinh tế năm 2011 gặp nhiều khó khăn. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một, kinh doanh thương nghiệp đạt 149,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,3% và tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 22 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% và tăng 33,3%; dịch vụ đạt 18,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,5% và tăng 16,9%; du lịch đạt 1,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,7% và tăng 11,1%.

  Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 01/2012 ước tính đạt 6,5 tỷ USD, giảm 28,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 2,3 tỷ USD, giảm 39,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 4,2 tỷ USD, giảm 20,8%. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng Một giảm so với tháng trước chủ yếu do một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm nhiều như: Hàng dệt may giảm 26,9%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 27,5%; cao su giảm 31,3%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 34,5%; thủy sản giảm 39,8%.

So với cùng kỳ năm 2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Một năm nay giảm 11,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 32,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (Kể cả dầu thô) tăng 7,2%. Một số mặt hàng chủ yếu có kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2011 là: Hàng dệt may giảm 22,6%; cao su giảm 29,4%; cà phê giảm 35,8%; gạo giảm 48,2%.

 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 01/2012 ước tính đạt 6,6 tỷ USD, giảm 29,5% so với tháng trước và giảm 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Một khu vực kinh tế trong nước đạt 3,1 tỷ USD, giảm 35,3% so với cùng kỳ năm 2011; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,5 tỷ USD, tăng 5,2%.

Kim ngạch nhập khẩu tháng Một của một số mặt hàng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là nhóm hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất. Trong đó, phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 86,2%; bông giảm 56%; dầu mỡ động thực vật giảm 51,8%; kim loại thường khác giảm 53,5%; vải giảm 30,9%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép giảm 20,6%. Nhập siêu tháng Một ước tính 100 triệu USD, bằng 1,5% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.

  Hàng hóa xuất khẩu

  Hàng hóa nhập khẩu

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2012 tăng 1% so với tháng trước, trong đó các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao là: Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,97%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,71%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,17%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,01% (Lương thực giảm 0,14%; thực phẩm tăng 1,41%). Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm là: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,96%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,93%; giao thông tăng 0,66%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,25%; giáo dục tăng 0,02%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2012 tăng 17,27% so với cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá vàng tháng 01/2012 giảm 3,62% so với tháng trước; tăng 19,66% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 01/2012 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 2,62% so với cùng kỳ năm 2011.

  Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng Một năm 2012

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng 01/2012 ước tính đạt 263,4 triệu lượt khách, tăng 14,7% và 11,3 tỷ lượt khách.km, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 3,6 triệu lượt khách, tăng 10,1% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 8,2%; vận tải địa phương đạt 259,8 triệu lượt khách, tăng 15,2% và 8,5 tỷ lượt khách.km, tăng 12,7%. Vận tải hành khách đường bộ tháng Một ước tính đạt 244,2 triệu lượt khách, tăng 15,3% và 8,3 tỷ lượt khách.km, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 16,6 triệu lượt khách, tăng 7,7% và 349,5 triệu lượt khách.km, tăng 13,7%; đường hàng không đạt 1,3 triệu lượt khách, tăng 10,3% và 2,3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,9%; đường biển đạt 0,5 triệu lượt khách, tăng 2,1% và 29,8 triệu lượt khách.km, tăng 3%; đường sắt đạt 0,9 triệu lượt khách, tăng 0,8% và 261,6 triệu lượt khách.km, giảm 3,3%.

Vận tải hàng hóa tháng 01/2012 ước tính đạt 72,3 triệu tấn, tăng 10,7% và 18 tỷ tấn.km, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 68,5 triệu tấn, tăng 11,6% và 4,6 tỷ tấn.km, tăng 9,8%; vận tải ngoài nước đạt 3,8 triệu tấn, tăng 4,1% và 13,5 tỷ tấn.km, tăng 3%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 56,6 triệu tấn, tăng 13,2% và 3 tỷ tấn.km, tăng 11,5%; đường sông đạt 10,6 triệu tấn, tăng 3,1% và 1,2 tỷ tấn.km, tăng 1,5%; đường biển đạt 4,6 triệu tấn, tăng 1% và 13,6 tỷ tấn.km, tăng 3%; đường sắt đạt 0,5 triệu tấn, giảm 16,4% và 286,4 triệu tấn.km, giảm 13,8%.

  Vận tải hành khách và hàng hoá

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới tháng 01/2012 ước tính đạt 832,2 nghìn thuê bao, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 2,2 nghìn thuê bao cố định, giảm 88% và 830 nghìn thuê bao di động, tăng 18,1%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 01/2012 ước tính đạt 134 triệu thuê bao, tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm: 15,5 triệu thuê bao cố định, xấp xỉ cùng thời điểm năm 2011 và 118,5 triệu thuê bao di động, tăng 4,5%.

Số thuê bao internet băng rộng cả nước tính đến cuối tháng 01/2012 ước tính đạt 4,3 triệu thuê bao, tăng 18,7% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 01/2012 ước tính đạt 33,4 triệu người, tăng 22,6% so với cùng thời điểm năm 2011. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông tháng Một ước tính đạt 11,1 nghìn tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta tháng 01/2012 ước tính đạt 630 nghìn lượt người, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 365 nghìn lượt người, tăng 21,6%; đến vì công việc đạt 110 nghìn lượt người, tăng 61,9%; thăm thân nhân đạt 120 nghìn lượt người, tăng 15,3%; khách đến với mục đích khác đạt 35 nghìn lượt người, tăng 7,5%.

Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta trong tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Trung Quốc đạt 147,7 nghìn lượt người, tăng 93,4%; Hàn Quốc đạt 60,6 nghìn lượt người, tăng 17%; Hoa Kỳ đạt 59,3 nghìn lượt người, tăng 26,8%; Nhật Bản đạt 56,9 nghìn lượt người, tăng 26,2%; Đài Loan đạt 43,5 nghìn lượt người, tăng 65,3%; Cam-pu-chia đạt 42,1 nghìn lượt người, tăng 95%; Pháp đạt 25,3 nghìn lượt người, tăng 33,3%; Ma-lai-xi-a đạt 20,8 nghìn lượt người, tăng 18,3%; Anh đạt 17,9 nghìn lượt người, tăng 39,7%.

  Khách quốc tế đến Việt Nam

Một số vấn đề xã hội

Tình hình đón Tết Nguyên đán Nhâm Thìn

Mừng Đảng, mừng xuân Nhâm Thìn 2012, các địa phương trên cả nước tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và du lịch cho người dân đón Tết vui xuân với nội dung mang nhiều ý nghĩa và hình thức phong phú, đa dạng như: Chương trình bắn pháo hoa vào thời khắc giao thừa tại 62 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Lễ hội phố Hoa tại hồ Hoàn Kiếm; Tuần phim “Mừng Đảng - Mừng xuân - Mừng Đất nước đổi mới”; Hội đèn lồng Hội An lần thứ IV; đường hoa Nguyễn Huệ với chủ đề “Việt Nam - Quê hương tôi”, Hội hoa xuân và Lễ hội Đường sách Tết Nhâm Thìn 2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh... Bên cạnh đó, các hoạt động lễ hội và trò chơi dân gian của đồng bào các dân tộc cũng được tổ chức tại nhiều địa phương trên cả nước như: Giải võ cổ truyền; Lễ hội đua thuyền truyền thống; Lễ gội đầu “Lúng ta” của người Thái; chương trình “Du xuân khám phá văn hóa vùng miền” của đồng bào Thái; lễ hội Katê của dân tộc Chăm…

Công tác an sinh xã hội được lãnh đạo Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương quan tâm chu đáo, kịp thời. Ngay từ trước Tết Nguyên đán, chính quyền và cấp ủy các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức chính trị xã hội và các doanh nghiệp đã tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà và chúc Tết các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách như: Lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh, người cao tuổi… Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, đã có khoảng 5,6 triệu phần quà với tổng giá trị gần 1,8 nghìn tỷ đồng được trao cho các gia đình và đối tượng chính sách trong dịp Tết Nguyên đán, bao gồm: 3,3 triệu phần quà với trị giá hơn 1 nghìn tỷ đồng cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách; 2,3 triệu phần quà, tương đương 0,7 nghìn tỷ đồng cứu trợ xã hội cho đối tượng là các hộ nghèo, người khuyết tật và người có hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 55/QĐ-TTg ngày 09/01/2012 và Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã thực hiện cấp phát gạo từ nguồn dự trữ quốc gia để cứu đói đột xuất cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm 2012. Theo đó, 22,4 nghìn tấn gạo đã được cấp phát cho 12 tỉnh gồm: Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Kon Tum và Đắk Lắk.

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng 01/2012, cả nước có 66,3 nghìn hộ thiếu đói, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 269,6 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tăng 7,5%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, bên cạnh việc cấp phát gạo cứu đói đột xuất cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm 2012 theo các Quyết định nói trên của Thủ tướng Chính phủ, trong tháng các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói hơn 10 nghìn tấn lương thực và 22,4 tỷ đồng.

Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Trong tháng 01/2012, cả nước có 1,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 4 trường hợp mắc viêm màng não mô cầu; 5 trường hợp mắc viêm não vi rút; 5 trường hợp mắc thương hàn và 2,2 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, trong đó 1 trường hợp tử vong.

Trong tháng đã xẩy ra 3 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể tại 3 tỉnh là: Bến Tre, An Giang và Bình Phước, làm 156 người bị ngộ độc. Các ngành chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm an toàn cho người dân trong dịp Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, do công tác kiểm tra, kiểm soát tương đối chặt chẽ của các đơn vị chức năng đối với việc chấp hành quy định vệ sinh an toàn thực phẩm, cùng với ý thức của người sản xuất, tiêu thụ và người tiêu dùng thực phẩm được nâng lên nên trong những ngày Tết Nguyên đán trên địa bàn cả nước không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tập thể nào.

Trong tháng đã phát hiện thêm 1,5 nghìn trường hợp nhiễm HIV. Tổng số người nhiễm HIV tính từ thời điểm ca đầu tiên được phát hiện đến giữa tháng 01/2012 là 250,1 nghìn người, trong đó 101,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 52,2 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Tai nạn giao thông

Theo báo cáo sơ bộ, trong 06 ngày nghỉ Tết Nguyên đán Nhâm Thìn (Từ 22-27/01/2012), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 284 vụ tai nạn giao thông, làm chết 234 người và làm bị thương 257 người. So với cùng thời gian nghỉ Tết năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 25,3%, số người chết giảm 22,6% và số người bị thương giảm 33,1%. Bình quân một ngày trong dịp nghỉ Tết năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 47 vụ tai nạn giao thông, làm chết 39 người và làm bị thương 43 người.

Thiệt hại do thiên tai

Thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài trong tháng tại khu vực phía Bắc gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư, đặc biệt tại các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Rét đậm, rét hại làm trên 7 nghìn ha lúa, hoa màu và mạ bị hư hỏng. Ngoài ra, triều cường tại một số tỉnh làm 250m đê bị sạt lở; trên 5km kè bị vỡ, cuốn trôi và gần 150 ngôi nhà bị sạt lở, ngập nước. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 48 tỷ đồng.

Khái quát lại, hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tháng Một năm nay tập trung chủ yếu vào việc làm tốt khâu lưu thông hàng hóa, bảo đảm số lượng và chất lượng hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán của nhân dân. Sản xuất công nghiệp tuy giảm do ảnh hưởng của thời gian nghỉ Tết dài nhưng trước đó việc bảo đảm nguồn hàng cung ứng phục vụ nhu cầu trong dịp Tết được đẩy nhanh tiến độ. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản không bị ảnh hưởng nhiều của thời tiết nên tương đối ổn định. Các cấp, các ngành và địa phương quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 2051/CT-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường biện pháp nhằm bình ổn giá cả, thị trường, bảo đảm trật tự an toàn xã hội dịp Tết Nhâm Thìn nên nhìn chung không có hiện tượng tăng giá đột biến, khan hiếm hàng hóa giả tạo. Vệ sinh an toàn thực phẩm có những cải thiện đáng kể. Tai nạn giao thông tuy còn xảy ra nhưng đã giảm nhiều so với dịp Tết Nguyên đán năm trước. Công tác an sinh xã hội, cứu trợ các gia đình và đối tượng chính sách được quan tâm chỉ đạo kịp thời, bảo đảm cho người dân trên cả nước được đón Tết, vui xuân trong không khí an lành và đầm ấm.