Tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I năm 2012

Theo Tổng cục Thống kê

Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012 của nước ta được triển khai trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế thế giới chưa có nhiều chuyển biến khả quan, còn tiềm ẩn yếu tố rủi ro và được dự báo tiếp tục có những biến động khó lường. Ở trong nước, hoạt động sản xuất kinh doanh đầu năm tiếp tục bị áp lực do lãi suất vay và huy động vốn cao, mức tiêu thụ sản phẩm đạt thấp.

Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được trong năm 2011 cùng với phân tích đầy đủ các yếu tố thuận lợi, khó khăn ở trong và ngoài nước, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2012. Theo đó, mục tiêu tổng quát của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn.

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 4,00% so với cùng kỳ năm 2011, thấp hơn mức tăng 5,57% của cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,84%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,94%, đóng góp 1,27 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,31%, đóng góp 2,40 điểm phần trăm.

Tăng trưởng kinh tế quý I năm nay đạt mức thấp do hầu hết các ngành, lĩnh vực gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Tốc độ tăng của ngành này chậm hơn cùng kỳ năm trước và hoạt động xây dựng giảm dẫn đến tốc độ tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng quý I năm nay tăng chậm so với cùng kỳ năm trước, từ đó ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.  

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

quý I các năm 2011 và 2012

 

 

Tốc độ tăng so với

quý I năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng quý I năm 2012 (Điểm phần trăm)

 

Quý I năm 2011

Quý I năm 2012

Tổng số

5,57

4,00

4,00

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

3,65

2,84

0,33

Công nghiệp và xây dựng

5,71

2,94

1,27

Dịch vụ

5,93

5,31

2,40

 

  Tổng sản phẩm trong nước quý I năm 2012

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Quý I năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 50,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 37,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2%; lâm nghiệp đạt 1,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,1%; thủy sản đạt 11,1 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9%.

  Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá so sánh 1994

Nông nghiệp

Tính đến ngày 15 tháng Ba, cả nước đã gieo cấy được 3065,9 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 1106,5 nghìn ha, bằng 101,1%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1959,4 nghìn ha, bằng 99%. Do thời tiết trong tháng tương đối thuận nên tiến độ gieo cấy lúa đông xuân năm nay ở các địa phương phía Bắc nhanh hơn cùng kỳ năm trước, tạo điều kiện cho lúa sinh trưởng và phát triển tốt.

Tính đến trung tuần tháng Ba, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 835,9 nghìn ha lúa đông xuân, chỉ bằng 82,2% cùng kỳ năm trước do lịch xuống giống năm nay muộn, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 805,2 nghìn ha, chiếm 51% diện tích xuống giống và bằng 81,2%. Một số địa phương có diện tích thu hoạch lúa đông xuân thấp là: An Giang bằng 29% cùng kỳ năm trước; Đồng Tháp bằng 39%; Cần Thơ bằng 62%; Kiên Giang bằng 71%. Theo ước tính sơ bộ, năng suất lúa đông xuân vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng khoảng 1 tạ/ha so với vụ đông xuân 2011; sản lượng đạt 10,7 triệu tấn, tăng gần 200 nghìn tấn. Năng suất lúa tăng chủ yếu do thời gian ngập lũ kéo dài cuối năm trước mang lại lượng phù sa nhiều, làm cho đất đai thêm màu mỡ; mặt khác do sử dụng các giống lúa năng suất cao và thực hiện tốt công tác phòng trừ sâu bệnh cũng như ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong quá trình chăm bón nên hạn chế được dịch bệnh, giúp lúa sinh trưởng và phát triển tốt.

Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến giữa tháng Ba, cả nước đã gieo trồng được 329 nghìn ha ngô, bằng 93% cùng kỳ năm trước; 88,1 nghìn ha khoai lang, bằng 105,6%; 432,4 nghìn ha rau đậu, bằng 106,5%. Riêng diện tích đỗ tương và lạc giảm mạnh so với cùng kỳ, trong đó đỗ tương đạt 52,3 nghìn ha, bằng 50,9%; lạc đạt 146,7 nghìn ha lạc, bằng 88,6%. Nguyên nhân do vụ đông 2011-2012 ở các địa phương phía Bắc có thời vụ ngắn, thời tiết lại mưa nhiều nên nông dân chủ yếu gieo trồng các loại cây ngắn ngày, chi phí đầu vào thấp để bảo đảm giải phóng đất cho gieo cấy lúa đông xuân đúng thời vụ. Một số địa phương có diện tích đậu tương giảm mạnh là: Hà Nội giảm trên 20 nghìn ha; Thái Bình giảm 8,7 nghìn ha; Hà Nam giảm hơn 7 nghìn ha; Ninh Bình giảm 6,8 nghìn ha; Vĩnh Phúc giảm 2,2 nghìn ha.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm ba tháng đầu năm gặp một số khó  khăn. Thời tiết rét đậm, rét hại đã làm 1,5 nghìn con gia súc bị chết, trong đó chủ yếu là trâu, bò già và bê, nghé. Ngoài ra, diện tích chăn thả gia súc đang bị thu hẹp, thời gian tái đàn lâu làm ảnh hưởng đến tổng đàn. Chăn nuôi gia cầm bị ảnh hưởng do dịch cúm gia cầm bùng phát tại nhiều địa phương trên cả nước. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và bị tiêu huỷ là 66,5 nghìn con.

Theo báo cáo sơ bộ, trong ba tháng đầu năm, đàn trâu, bò giảm khoảng 7% so với cùng kỳ năm trước, riêng đàn bò sữa tăng trên 10%; đàn lợn mặc dù tăng 3-4% nhưng giá thịt lợn đang có xu hướng giảm do tâm lý lo ngại của người tiêu dùng về việc sử dụng chất kích thích trong chăn nuôi tại một số địa phương; đàn gia cầm tuy bị ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nhưng do tổng đàn tăng khá cao vào thời điểm cuối năm trước nên ước tính tăng 4-5%. Tính đến ngày 25/3/2012, dịch cúm gia cầm đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương là: Dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Hà Nam; dịch tai xanh trên lợn ở Điện Biên.

  Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 3 năm 2012

Lâm nghiệp

Hoạt động lâm nghiệp những tháng đầu năm tập trung chủ yếu vào trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi và bảo vệ rừng; đồng thời quan tâm đến công tác phòng chống cháy rừng trong mùa khô. Tổng diện tích rừng trồng tập trung ba tháng đầu năm ước tính đạt 16,7 nghìn ha, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương trồng được nhiều diện tích rừng là: Yên Bái 3667 ha; Thanh Hóa 1614 ha; Phú Thọ 1450 ha; Quảng Ninh 1440 ha; Hà Tĩnh 1335 ha. Diện tích rừng trồng được chăm sóc quý I đạt 138 nghìn ha, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2011; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh 592 nghìn ha, tăng 2,8%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 62 triệu cây, tăng 2,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1045 nghìn m3, tăng 9,3%; sản lượng củi khai thác đạt 7195 nghìn ste, tăng 2,3%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác cao là: Bình Định 56 nghìn m3, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; Phú Thọ 54 nghìn m3, tăng 27,8%; Quảng Nam 45 nghìn m3, tăng 7,5%; Thừa Thiên - Huế 44 nghìn m3, tăng 4,2%; Quảng Bình 30 nghìn m3, tăng 35,3%; Quảng Ninh 29 nghìn m3, tăng 68,3%; Lâm Đồng 24 nghìn m3, tăng 5,2%; Lạng Sơn 23 nghìn m3, tăng 15,2%; Long An 22 nghìn m3, tăng 5%.

Thời tiết vào mùa khô hạn nên nhiều địa phương có nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Đặc biệt vào trung tuần tháng Ba đã xảy ra cháy rừng gay gắt ở các tỉnh vùng Tây Bắc, điển hình là vụ cháy rừng quốc gia Hoàng Liên. Theo tổng hợp sơ bộ, đến trung tuần tháng Ba đã xảy ra 45 vụ cháy rừng làm thiệt hại 632 ha, gấp 12 lần cùng kỳ năm trước, riêng khu vực Tây Bắc thiệt hại 618 ha; diện tích rừng bị phá là 69 ha. Theo thông tin cảnh báo cháy rừng, cả nước có 15 tỉnh có khu vực nguy cơ cháy rừng ở cấp IV - cấp nguy hiểm và cấp V - cấp cực kỳ nguy hiểm, trọng điểm là các tỉnh thuộc các vùng: Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản ba tháng đầu năm nay ước tính đạt 1138,2 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 858 nghìn tấn, tăng 3,8%; tôm đạt 104,5 nghìn tấn, tăng 6%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng ba tháng ước tính đạt 511,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 380,2 nghìn tấn, tăng 5%; tôm đạt 76,1 nghìn tấn, tăng 7%. Nuôi trồng thủy sản quý I năm nay tương đối thuận lợi do giá cả các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực tăng đã khuyến khích nông dân mở rộng diện tích thả nuôi. Nuôi trồng cá tra tuy có khởi sắc nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro do giá cá tra nguyên liệu bấp bênh, không ổn định. Sản lượng cá tra thu hoạch của các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long ba tháng ước tính đạt gần 240 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có sản lượng cá tra tăng khá là: Đồng Tháp đạt 73 nghìn tấn, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2011; Bến Tre đạt 36 nghìn tấn, tăng 50%; Cần Thơ đạt 25 nghìn tấn, tăng 36%. Một số địa phương có sản lượng cá tra đạt thấp là: An Giang 77 nghìn tấn, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước; Vĩnh Long 22 nghìn tấn, giảm 19%.

Sản lượng tôm nuôi thu hoạch trong kỳ chủ yếu trên phần diện tích thả nuôi tỉa thưa và thả bù. Nuôi tôm sú thâm canh đang trong thời kỳ cải tạo ao đầm, rải rác một số địa phương đã xuống giống. Tuy nhiên, hiện dịch bệnh đã phát sinh và lan rộng ở một số địa phương, trong đó Trà Vinh có trên 31 triệu con giống bị chết trên diện tích 1000 ha mặt nước; Sóc Trăng có 260 ha bị nhiễm bệnh; Tiền Giang 64 ha. Do đó các địa phương cần tập trung kiểm soát chặt chẽ lịch thả nuôi và công tác kiểm dịch để bảo đảm chất lượng và số lượng con giống. Nuôi tôm hùm lồng cũng gặp một số khó khăn về dịch bệnh phát sinh, tại Phú Yên có khoảng 7,5 nghìn lồng nuôi tôm hùm từ 6-10 tháng tuổi bị chết do mắc bệnh sữa, đen mang và thân đỏ.

Nuôi trồng các loại thủy sản khác tương đối ổn định theo hướng đa canh, đa con kết hợp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo đảm môi trường sinh thái bền vững. Mô hình nuôi phổ biến tại các địa phương là kết hợp tôm - cá, tôm - cua, tôm - lúa, lúa - cá hoặc nuôi lồng, bè trên biển với các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như: Cá mú, cá giò, tu hài.

Sản lượng thủy sản khai thác quý I ước tính đạt 626,6 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 581,6 nghìn tấn, tăng 3,1%. Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ xăng dầu cho tàu có công suất lớn khai thác trên các vùng biển xa bờ và triển khai dự án quan sát bằng vệ tinh cho tàu cá có công suất 90CV trở lên ở các địa phương tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân yên tâm ra khơi đánh bắt.

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp ba tháng đầu năm tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2011. Trong chỉ số sản xuất chung toàn ngành công nghiệp quý I năm nay, công nghiệp khai thác mỏ tăng 3,2%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,2%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 13,7%. Trong ba ngành công nghiệp trên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành tác động chủ yếu đến chỉ số sản xuất chung do chiếm tỷ trọng cao nhất trong giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp với mức khoảng 75%. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu sản phẩm của ngành này gặp nhiều khó khăn dẫn đến kết quả đạt thấp hơn nhiều so với cùng kỳ một số năm trước (Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cùng kỳ các năm 2010 và 2011 tương ứng là: 10,6% và 13,4%).

Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất ba tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Đóng và sửa chữa tàu tăng 177,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 20,1%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 18,9%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 15%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 14,2%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 12,2%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Khai thác, lọc và phân phối nước tăng 8,4%; sản xuất đường tăng 7,3%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 6,3%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 6%. Nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá, thuốc lào tăng 3,8%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 2%; khai thác và thu gom than cứng tăng 0,8%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 5,9%; sản xuất giày, dép giảm 6,9%; sản xuất xi măng giảm 10,7%; sản xuất sắt, thép giảm 15,8%; sản xuất xe có động cơ giảm 17,5%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 19,1%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I năm 2012 so với cùng kỳ năm trước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2,4%; Hà Nội tăng 2,8%; Đồng Nai tăng 7%; Bình Dương tăng 4,3%; Bà Rịa -Vũng Tàu tăng 5,2%; Hải Phòng tăng 2,3%; Vĩnh Phúc tăng 18,7%; Cần Thơ tăng 3%; Hải Dương tăng 6,1%; Đà Nẵng tăng 2%.

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hai tháng đầu năm tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Chế biến và bảo quản rau quả tăng 47,5%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 28,3%; sản xuất đường tăng 20,2%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá là: Sản xuất thức ăn gia súc tăng 14,1%; chế biến bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 11,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất xe có động cơ tăng 4,9%; sản xuất thuốc lá, thuốc lào tăng 3,5%; sản xuất giày, dép giảm 10,1%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 15,4%; sản xuất xi măng giảm 15,7%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 20,1%; sản xuất sắt, thép giảm 24,9%; sản xuất giấy nhăn và bao bì giảm 26,1%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 30,1%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 35,7%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm liên tục qua các tháng gần đây là: Sản xuất xe có động cơ; sản xuất sắt, thép; sản xuất cáp điện và dây có bọc cách điện.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/3/2012 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng khá cao là: Chế biến và bảo quản rau quả tăng 87,2%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 62,7%; sản xuất sắt, thép tăng 59,1%; sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào tăng 58%; sản xuất xi măng vôi, vữa tăng 55%; sản xuất xe có động cơ tăng 38,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho cao và có xu hướng tăng lên qua các tháng gần đây là: Chế biến và bảo quản rau quả; sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào; sản xuất xi măng vôi, vữa; sản xuất giày dép; sản xuất xe có động cơ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất đồ uống không cồn tăng 11%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 9,2%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 6,6%.

  Chỉ số sản xuất công nghiệp

  Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

Hoạt động dịch vụ

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ba tháng đầu năm theo giá thực tế ước tính đạt 569,7 nghìn tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 5%), bao gồm: Kinh tế cá thể đạt 276,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 48,6% tổng mức và tăng 16,9%; kinh tế tư nhân đạt 202,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,6% và tăng 25,7%; kinh tế Nhà nước đạt 66 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,6% và tăng 28,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 3% và tăng 36,7%; kinh tế tập thể đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,2% và tăng 19,2%. Trong các ngành kinh doanh, kinh doanh thương nghiệp đạt 444,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,9% tổng mức và tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 65,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% và tăng 24,6%; dịch vụ đạt 54,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,6% và tăng 34,3%; du lịch đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 14,2%.

  Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Vận tải hành khách và hàng hóa

Lượng hành khách vận chuyển ba tháng đầu năm ước tính đạt 807,8 triệu lượt khách, tăng 14,3% và 33,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hành khách đường bộ quý I ước tính đạt 749,1 triệu lượt khách, tăng 15,3% và 25,6 tỷ lượt khách.km, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2011; đường sông đạt 50,8 triệu lượt khách, tăng 1,3% và 1,1 tỷ lượt khách.km, tăng 2,2%; đường sắt đạt 2,8 triệu lượt khách, tăng 5,5% và 1 tỷ lượt khách.km, tăng 5,9%; đường hàng không đạt 3,6 triệu lượt khách, tăng 4,4% và 5,9 tỷ lượt khách.km, tăng 9,2%.

Khối lượng hàng hoá vận chuyển ba tháng đầu năm ước tính đạt 215,2 triệu tấn, tăng 10,3% và 49,5 tỷ tấn.km, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận chuyển trong nước đạt 206,3 triệu tấn, tăng 11,2% và 17,6 tỷ tấn.km, tăng 2,6%; vận chuyển ngoài nước đạt 8,9 triệu tấn, giảm 6,8% và 31,8 tỷ tấn.km, giảm 5,6%. Vận chuyển hàng hoá đường bộ quý I năm nay ước tính đạt 170,1 triệu tấn, tăng 12,9% và 9,1 tỷ tấn.km, tăng 10,8%; đường sông đạt 32,3 triệu tấn, tăng 3,9% và 3,5 tỷ tấn.km, tăng 2,7%; đường biển đạt 11,2 triệu tấn, giảm 8,9% và 36 tỷ tấn.km, giảm 7,7%; đường sắt đạt 1,6 triệu tấn, giảm 9,3% và 858,3 triệu tấn.km, giảm 11,9%.

  Vận tải hành khách và hàng hoá

Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới ba tháng đầu năm ước tính đạt 2,6 triệu thuê bao, tăng 35,3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 7,6 nghìn thuê bao cố định, bằng 35,4% cùng kỳ và 2,5 triệu thuê bao di động, tăng 36,4%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng Ba năm 2012 ước tính đạt 134 triệu thuê bao, tăng 3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm: 15,3 triệu thuê bao cố định, giảm 1,6% và 118,7 triệu thuê bao di động, tăng 3,6%.

Tính đến cuối tháng Ba năm nay, số thuê bao internet trên cả nước ước tính đạt 4,2 triệu thuê bao, tăng 17,5% so với cùng thời điểm năm trước; số người sử dụng internet đạt 32,1 triệu người, tăng 15,3%. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông ba tháng đầu năm ước tính đạt 32,6 nghìn tỷ đồng, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2011.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta ba tháng đầu năm ước tính đạt 1873,7 nghìn lượt người, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1112,6 nghìn lượt người, tăng 24,5%; đến vì công việc 319,5 nghìn lượt người, tăng 28,2%; thăm thân nhân đạt 334,5 nghìn lượt người, tăng 23,2%.

Trong ba tháng đầu năm, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 391,6 nghìn lượt người, tăng 36%; Hàn Quốc 206,3 nghìn lượt người, tăng 43,3%; Nhật Bản 159,2 nghìn lượt người, tăng 16,9%; Hoa Kỳ 134,8 nghìn lượt người, tăng 0,9%; Đài Loan 118,6 nghìn lượt người, tăng 33,7%; Cam-pu-chia 90,6 nghìn lượt người, tăng 18,1%; Pháp 72 nghìn lượt người, tăng 14,9%; Ma-lai-xi-a 70,2 nghìn lượt người, tăng 32%; Nga 56,2 nghìn lượt người, tăng 45,4%.

  Khách quốc tế đến Việt Nam

ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

Xây dựng, đầu tư phát triển

Giá trị sản xuất xây dựng quý I năm nay theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 36,4 nghìn tỷ đồng, bằng 96,4% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 5,1 nghìn tỷ đồng, bằng 84,2%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 30,1 nghìn tỷ đồng, bằng 99%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,2 nghìn tỷ đồng, bằng 91,2%;

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I năm 2012 theo giá thực tế ước tính đạt 197,7 nghìn tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước và bằng 36,2% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 74,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,5% tổng vốn và tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 71,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,2% và tăng 20,4%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 52 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,3% và giảm 1,3%.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I năm 2012

 

 

Nghìn tỷ đồng

Cơ cấu (%)

So với cùng kỳ

năm trước (%)

TỔNG SỐ

197,7

100,0

112,8

Khu vực Nhà nước

74,2

37,5

117,6

Khu vực ngoài Nhà nước

71,5

36,2

120,4

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

52,0

26,3

98,7

Trong tổng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện quý I ước tính đạt 37 nghìn tỷ đồng, bằng 19% kế hoạch năm và tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 9,5 nghìn tỷ đồng, bằng 18,6% kế hoạch năm và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 1487 tỷ đồng, bằng 19,9% và tăng 13,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 855 tỷ đồng, bằng 17,7% và tăng 9,2%; Bộ Xây dựng 304 tỷ đồng, bằng 16,7% và tăng 9,7%; Bộ Y tế 208 tỷ đồng, bằng 18,7% và tăng 9,2%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 185 tỷ đồng, bằng 19,8% và tăng 2,5%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 128 tỷ đồng, bằng 20,2% và tăng 4,9%; Bộ Công Thương 82 tỷ đồng, bằng 18,1% và tăng 10,4%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 27,5 nghìn tỷ đồng, bằng 19,1% kế hoạch năm và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như sau: Hà Nội đạt 3068 tỷ đồng, bằng 12,9% kế hoạch năm và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2011; thành phố Hồ Chí Minh 2225 tỷ đồng, bằng 14,5% và tăng 4,9%; Đà Nẵng 1371 tỷ đồng, bằng 21,3% và giảm 25,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu 861 tỷ đồng, bằng 22,8% và tăng 6,2%; Quảng Ninh 717 tỷ đồng, bằng 18,1% và giảm 4,4%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/3/2012 đạt 2634,9 triệu USD, bằng 63,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 120 dự án được cấp phép mới đạt 2267,4 triệu USD, bằng 44,4% số dự án và bằng 77,2% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 29 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 367,5 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I năm nay ước tính đạt 2,5 tỷ USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tổng vốn đăng ký của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành quý I năm nay, ngành kinh doanh bất động sản đạt 1200 triệu USD của 02 dự án cấp phép mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1174,5 triệu USD, bao gồm: 816,5 triệu USD của 51 dự án cấp phép mới và 358 triệu USD vốn tăng thêm; ngành vận tải, kho bãi đạt 180 triệu USD của 01 dự án cấp phép mới.

Cả nước có 21 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong quý I, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1225,9 triệu USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 605,2 triệu USD, chiếm 26,7%; Khánh Hòa 180 triệu USD, chiếm 7,9%; Đồng Nai 76,9 triệu USD, chiếm 3,4%.

Trong số 24 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam ba tháng đầu năm, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 2098,8 triệu USD, chiếm 92,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Lan 46,1 triệu USD, chiếm 2%; Hàn Quốc 25,8 triệu USD, chiếm 1,1%; Thái Lan 25,3 triệu USD, chiếm 1,1%, v.v.

  Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước

  Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/3/2012

Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2012 ước tính đạt 136,9 nghìn tỷ đồng, bằng 18,5% dự toán năm, trong đó thu nội địa 89,5 nghìn tỷ đồng, bằng 18,1%; thu từ dầu thô 19,5 nghìn tỷ đồng, bằng 22,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 27,1 nghìn tỷ đồng, bằng 17,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 22% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 16,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 17,8%; thuế thu nhập cá nhân bằng 17,2%; thuế bảo vệ môi trường bằng 18,4%; thu phí, lệ phí bằng 12,7%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2012 ước tính đạt 164,9 nghìn tỷ đồng, bằng 18,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 31,4 nghìn tỷ đồng, bằng 17,4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 30,7 nghìn tỷ đồng, bằng 17,6%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 111,4 nghìn tỷ đồng, bằng 18,5%; chi trả nợ và viện trợ 22,1 nghìn tỷ đồng, bằng 22,1%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu hàng hoá

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ba tháng đầu năm ước tính đạt 24,5 tỷ USD, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt gần 9 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm trước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,5 tỷ USD, tăng 43,1%.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng cao chủ yếu do đơn giá xuất khẩu bình quân một số mặt hàng tăng như: Giá điện thoại và linh kiện tăng 179,8%; giá chất dẻo tăng 64,7%; giá máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 61,3%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I năm nay tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.

Trong quý I, một số mặt hàng xuất khẩu đạt mức kim ngạch tăng cao là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,9 tỷ USD, tăng 179,8% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,6 tỷ USD, tăng 97,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,2 tỷ USD, tăng 61,3%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng khá là: Hàng dệt may đạt 3,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2011; dầu thô đạt 1,7 tỷ USD, tăng 9,1%; giày dép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 14%; thủy sản đạt 1,3 tỷ USD, tăng 11,7%. Riêng xuất khẩu gạo và cà phê giảm cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước, trong đó cà phê đạt 514 nghìn tấn, giảm 10,1% và kim ngạch đạt 1,1 tỷ USD, giảm 11,8%; gạo đạt 1104 nghìn tấn, giảm 42,5% và kim ngạch đạt 556 triệu USD, giảm 42,5%.

Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu có sự thay đổi: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng t 37,3% trong quý I năm trước lên 44,9% trong quý I năm nay do có sự đóng góp lớn của mặt hàng điện thoại và linh kiện các loại; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp giảm nhẹ t 36,3% xuống 35,5%; nhóm hàng nông, lâm sản giảm từ 20,7% xuống 14,5%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 5,7% xuống 5,1%.

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I năm nay, EU là thị trường lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 4,5 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là Hoa Kỳ đạt 4,1 tỷ USD, tăng 16,5%; ASEAN đạt 3,6 tỷ USD, tăng 21%; Nhật Bản đạt 2,9 tỷ USD, tăng 45%; Trung Quốc 2,6 tỷ USD, tăng 18,1%.

  Hàng hóa xuất khẩu

Nhập khẩu hàng hoá

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ba tháng đầu năm ước tính đạt 24,8 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 11,7 tỷ USD, giảm 10,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13 tỷ USD, tăng 30,3%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I tăng chủ yếu do giá bình quân các mặt hàng nhập khẩu tăng như: Giá phân bón tăng 19%; giá xăng dầu tăng 18%; gdầu thô tăng 13%; giá khí đốt hoá lỏng tăng 11%.

Trong số các mặt hàng nhập khẩu quý I năm nay, hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,7 tỷ USD, tăng 103,4% so với cùng kỳ năm trước; sắt thép đạt 1,4 tỷ USD, tăng 7,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2011 là: Xăng dầu 2 tỷ USD, giảm 19,7%; vải 1,3 tỷ USD, giảm 11,1%; kim loại thường 594 triệu USD, giảm 3,3%; ôtô 510 triệu USD, giảm 32,4%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu 496 triệu USD, giảm 19%; sợi dệt 341 triệu USD, giảm 13,3%.

Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu cũng có sự thay đổi: Tỷ trọng nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng từ 90,4% trong quý I năm trước lên 92,7% trong quý I năm nay, trong đó máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng tăng từ 27,6% lên 33,9%; nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu giảm từ 62,8% xuống 58,8%; nhóm hàng tiêu dùng giảm từ 8,4% xuống 7,3%. Riêng vàng không nhập khẩu trong quý I năm nay, trong khi tỷ trọng kim ngạch mặt hàng này cùng kỳ năm trước là 1,2%.

Về thị trường nhập khẩu ba tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất của nước ta với kim ngạch ước tính 5,4 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là ASEAN 4,9 tỷ USD, tăng 2,8%; Hàn Quốc 3,4 tỷ USD, tăng 20%; Nhật Bản đạt 2,6 tỷ USD, tăng 14,8%; EU 1,9 tỷ USD, tăng 25%.

Nhập siêu hàng hóa quý I năm 2012 ước tính 251 triệu USD, bằng 1% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,75 tỷ USD; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 2,5 tỷ USD.

  Hàng hóa nhập khẩu

Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng tháng Ba năm 2012 tăng nhẹ ở mức 0,16% so với tháng trước. Đặc biệt chỉ số giá lương thực và thực phẩm đã giảm mạnh, trong đó lương thực giảm 1,21%; thực phẩm giảm 1,25%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá tăng cao nhất với 2,31%; nhóm giáo dục tăng 1,11%; giao thông tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn nhiều hoặc giảm gồm: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,48%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,41%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,36%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,83%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2012 tăng 2,55% so với tháng 12/2011; tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 15,95% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.

Giá cả hàng hóa ba tháng đầu năm nhìn chung có xu hướng tăng chậm lại. Trong chỉ số giá tiêu dùng chung của tháng Ba, mức điều chỉnh tăng giá xăng, dầu gần 10% tác động làm chỉ số giá tăng khoảng 0,08%. Tuy nhiên, tháng Ba là tháng sau Tết Nguyên đán nên nhu cầu tiêu dùng lương thực và thực phẩm không cao như một vài tháng trước, cùng với nguồn cung khá dồi dào nên mức tăng của chỉ số giá nhóm hàng này giảm mạnh. Do đó, với tỷ trọng lớn của nhóm lương thực, thực phẩm trong rổ hàng hóa, dịch vụ thì đây là yếu tố chủ yếu góp phần làm mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tháng Ba giảm.

Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 3/2012 giảm 0,44% so với tháng trước; giảm 0,91% so với tháng 12/2011; tăng 17,58% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2012 giảm 0,63% so với tháng trước; giảm 0,99% so với tháng 12/2011; giảm 2,38% so với cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2012 tăng 0,26% so với quý trước và tăng 21,25% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp giảm 1,46% và tăng 19,89%; hàng lâm nghiệp tăng 3,36% và tăng 14,55%; hàng thủy sản tăng 6,81% và tăng 27,47%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý I năm 2012 tăng 3,16% so với quý trước và tăng 16,81% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 19,22% và tăng 38,86%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,75% và tăng 13,43%; điện và phân phối điện tăng 5,05% và tăng 8,99%; nước sạch, nước thải tăng 13,6%.

Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất quý I năm 2012 tăng 2,31% so với quý trước và tăng 18,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất của một số ngành tăng cao so với quý trước là: Sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 6,92%; dệt, trang phục, da và các sản phẩm có liên quan tăng 5,77%; khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,38%.

Chỉ số giá cước vận tải quý I năm 2012 tăng 5,94% so với quý trước và tăng 18,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá cước vận tải hành khách tăng 11,01% và tăng 33,05%; giá cước vận tải hàng hóa tăng 1,78% và tăng 7,87%; giá cước dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 4,21% và tăng 13,81%. Chỉ số giá cước vận tải các ngành đường như sau: Giá cước ngành đường sắt quý I năm 2012 tăng 6,06% so với quý trước và tăng 38,12% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải đường bộ tăng 2,01% và tăng 11,87%; đường thủy tăng 2,54% và tăng 9,74%; đường hàng không tăng 19,85% và tăng 46,64%; dịch vụ kho bãi và các dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 4,21% và tăng 13,81%.

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I năm 2012 giảm 1,75% so với quý trước và tăng 4,57% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý I năm 2012 giảm 1,04% so với quý trước và tăng 10,56% so với cùng kỳ năm 2011.

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng Ba năm 2012

  Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm, thủy sản quý I năm 2012

  Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý I năm 2012

  Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý I năm 2012

  Chỉ số giá xuất khẩu quý I năm 2012

  Chỉ số giá nhập khẩu quý I năm 2012

  Chỉ số giá cước vận tải quý I năm 2012

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Lực lượng lao động

Theo kết quả sơ bộ điều tra lao động, việc làm quý I năm 2012, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 52,2 triệu người, tăng 827,3 nghìn người so với lực lượng lao động bình quân năm 2011. Trong tổng lực lượng lao động, nam là 26,9 triệu người, tăng 400,9 nghìn người; nữ là 25,3 triệu người, tăng 426,4 nghìn người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cả nước là 46,9 triệu người, tăng 403,6 nghìn người so với số bình quân năm trước, trong đó nam là 25 triệu người, tăng 148,3 nghìn người; nữ là 21,9 triệu người, tăng 255,3 nghìn người.

Đời sống dân cư

Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước là 12,6%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với năm 2010, trong đó tỷ lệ hộ nghèo của khu vực thành thị là 5,1%; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn là 15,9%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 của các vùng như sau: Vùng Trung du miền núi phía Bắc 26,7%; Vùng Tây Nguyên 20,3%; Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 18,5%; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 11,6%; Vùng Đồng bằng sông Hồng 7,1%; Vùng Đông Nam Bộ 1,7%.

Kinh tế những tháng đầu năm tiếp tục gặp nhiều khó khăn nhưng do thực hiện tốt công tác an sinh xã hội nên đời sống dân cư nhìn chung ổn định. Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Thìn, chính quyền và cấp ủy các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức chính trị-xã hội và các doanh nghiệp đã tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà và chúc Tết các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Theo báo cáo từ các địa phương, đã có 5,6 triệu phần quà với tổng trị giá 1,8 nghìn tỷ đồng được trao cho các gia đình và đối tượng chính sách, bao gồm: 3,3 triệu phần quà với trị giá hơn 1 nghìn tỷ đồng được trao cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách; 2,3 triệu phần quà tương đương 0,7 nghìn tỷ đồng cứu trợ xã hội cho đối tượng là các hộ nghèo, người khuyết tật và người có hoàn cảnh khó khăn.

Đời sống nông dân khu vực nông thôn có phần được cải thiện. Trong ba tháng đầu năm, cả nước có 200,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 33,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 827,1 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 32,8%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 17,8 nghìn tấn lương thực và 22,4 tỷ đồng. Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã cấp phát 22,4 nghìn tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia để cứu đói đột xuất cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Thìn là giáp hạt năm 2012.

Giáo dục và đào tạo

Giáo dục

Theo báo cáo từ các địa phương, tại thời điểm đầu năm học 2011-2012, cả nước có 13384 trường mẫu giáo, tăng 706 trường so với năm học trước; 15337 trường tiểu học, tăng 95 trường; 10243 trường trung học cơ sở, tăng 100 trường và 2433 trường trung học phổ thông, tăng 145 trường. Số giáo viên của các cấp học cũng tăng so với năm học 2010-2011, trong đó giáo viên mẫu giáo là 181,9 nghìn người, tăng 15,5%; giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 829,6 nghìn người, tăng 1,4%, bao gồm: 366 nghìn giáo viên tiểu học, tăng 2%; 313,5 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tăng 0,3% và 150,1 nghìn giáo viên trung học phổ thông, tăng 2,3%. Cũng tại thời điểm trên, cả nước có 3,4 triệu trẻ em đến lớp mẫu giáo, tăng 11,1% so với năm học trước; 7,1 triệu học sinh tiểu học, tăng 1,4%; 4,9 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,8 triệu học sinh trung học phổ thông. Số học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông không biến động nhiều so với năm học 2010-2011. Tính đến hết tháng Ba năm 2012, cả nước có 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Đào tạo

Trong năm học 2011-2012, tổng số sinh viên đại học, cao đẳng của cả nước là 2478 nghìn sinh viên, đạt tỷ lệ 280 sinh viên/1 vạn dân, tăng 14,6% so với năm học trước; tổng số học sinh trung cấp chuyên nghiệp đạt 734 nghìn học sinh, tăng 7%. Trong tổng số sinh viên đại học và cao đẳng, nữ sinh viên chiếm tỷ lệ khoảng 47%. Trong tổng số học sinh trung cấp chuyên nghiệp, nữ học sinh chiếm tỷ lệ khoảng 54%. Nhìn chung các tỷ lệ trên không thay đổi nhiều qua các năm học vừa qua.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong ba tháng đầu năm nay, cả nước có 7,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (5 trường hợp tử vong); 68 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 12 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong); chưa ghi nhận trường hợp nào mắc cúm A (H1N1). Bệnh tay chân miệng vẫn diễn biến phức tạp và xảy ra ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Trong tháng ghi nhận trên 7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng. Tính chung ba tháng, đã có 15,2 nghìn trường hợp tại 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mắc bệnh, trong đó 11 trường hợp tử vong.

Trong tháng đã phát hiện thêm 987 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Ba năm 2012 lên 251,9 nghìn người, trong đó 102,2 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 52,5 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm mặc dù đã được tăng cường nhưng tình trạng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm và ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra tại một số địa phương. Riêng trong tháng Ba đã xảy ra sáu vụ ngộ độc thực phẩm tập thể điển hình tại các tỉnh: Đồng Nai, Quảng Ngãi, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Gia Lai và Tuyên Quang làm 166 người bị ngộ độc. Trong ba tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 16 vụ ngộ độc thực phẩm làm 360 người bị ngộ độc, trong đó 3 trường hợp tử vong.

Hoạt động văn hóa, thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin ba tháng đầu năm tập trung chủ yếu vào tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, tổ chức hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc và đón xuân mới Nhâm Thìn 2012. Cùng với việc tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, thông tin, công tác thanh tra, kiểm tra tại các địa phương được tăng cường nhằm bảo đảm môi trường lành mạnh trong hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá. Một số điển hình về kết quả công tác tranh tra, kiểm tra trong những tháng đầu năm là: Bắc Ninh kiểm tra trên 200 lượt hộ và cơ sở kinh doanh, tịch thu hàng trăm băng đĩa lậu; Bình Thuận tổ chức kiểm tra hơn 400 cơ sở kinh doanh văn hoá phẩm, số tiền xử phạt hành chính trên 150 triệu đồng; Bình Dương kiểm tra hơn 300 cơ sở, tịch thu hàng nghìn sản phẩm văn hóa phẩm có nội dung không phù hợp và số tiền xử phạt gần 190 triệu đồng, v.v.

Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng trong ba tháng đầu năm diễn ra sôi nổi tại các địa phương, trong đó điển hình là Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc khu vực I tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ thu hút gần 2 nghìn vận động viên tham gia tranh tài ở 10 môn thể thao. Lễ phát động cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2012-2020 đang được xây dựng kế hoạch để tổ chức triển khai trong thời gian tới.

Trong thể thao thành tích cao, ngành Thể dục Thể thao đã hoàn thiện kế hoạch tham dự vòng loại Olympic Luân-đôn năm 2012. Tính đến nay, cả nước đã có 7 vận động viên giành suất chính thức tham gia vòng loại nói trên. Ngoài ra, ngành Thể dục Thể thao đã tổ chức thành công 15 giải thi đấu trong nước, 01 giải thi đấu quốc tế và tham dự 22 giải đấu quốc tế. Đặc biệt, tại các giải quốc tế tổ chức trong nước, đoàn Việt Nam đạt giải vô địch nữ tại giải Cờ vua quốc tế HDBank 2012 lần thứ 2 và dành ngôi Á quân tại giải Bóng chuyền quốc tế cup VTV-Bình Điền lần thứ VI.

Tai nạn giao thông

Trong tháng 02/2012, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 904 vụ tai nạn giao thông, làm chết 735 người và làm bị thương 718 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 25,4%; số người chết giảm 23,4%; số người bị thương giảm 31%. Tính chung hai tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1940 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1665 người và làm bị thương 1481 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,2%; số người chết giảm 19,7%; số người bị thương giảm 23,7%. Bình quân một ngày trong hai tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông, làm chết 28 người và làm bị thương 25 người.

Thiệt hại do thiên tai

Thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài cùng áp thấp nhiệt đới và mưa to, triều cường xảy ra trong ba tháng đầu năm gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa phương trên cả nước. Thiên tai làm hơn 100 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 3,1 nghìn ngôi nhà bị ngập nước; gần 7 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng; 6,3 nghìn ha lúa, mạ và hoa màu bị mất trắng; hơn 1,5 nghìn con gia súc bị chết. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong những tháng đầu năm ước tính trên 62 tỷ đồng.

Khái quát lại, kinh tế-xã hội quý I năm nay đạt được một số kết quả nhất định. Tăng trưởng kinh tế tuy không cao nhưng là mức tăng hợp lý trong điều kiện cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng chậm lại. Xuất khẩu hàng hóa tăng khá. Những khó khăn trong vấn đề thanh khoản của các ngân hàng đang dần được khắc phục. Tuy nhiên, kinh tế-xã hội nước ta tiếp tục phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới biến động phức tạp, thị trường giá cả hàng hóa thay đổi khó lường. Việc thực hiện lộ trình điều chỉnh giá một số mặt hàng như: Điện, than, xăng dầu theo cơ chế thị trường sẽ ảnh hưởng đến cả chỉ số giá tiêu dùng và chi phí đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Do đó, để bảo đảm hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch của năm 2012, các ngành, các cấp, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 của Chính phủ, tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:

Một là, việc ban hành và thực hiện các chính sách tiền tệ cần được thực hiện linh hoạt và đồng bộ, bảo đảm tính thanh khoản ổn định lâu dài cho các ngân hàng thương mại. Một số ngân hàng được yêu cầu hạ lãi suất cho vay cần chủ động tính toán đầy đủ, có giải pháp cụ thể trong huy động vốn và giảm chi phí nhằm bảo đảm hiệu quả kinh doanh, đồng thời xem xét kỹ các đối tượng và mục đích vay vốn, trên cơ sở khả năng cân đối vốn có mức giảm lãi suất cho vay phù hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Hai là, trong lộ trình tuân thủ giá thị trường để dần tiến tới xoá bao cấp đối với một số hàng hoá, dịch vụ đầu vào quan trọng của nền kinh tế, cần thực hiện nhất quán quan điểm điều chỉnh tăng giá ở mức độ có kiềm chế, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, không đẩy chỉ số giá tiêu dùng tăng quá cao. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục kiểm soát, quản lý chặt chẽ thị trường giá cả hàng hóa nhằm bảo đảm bình ổn giá cả thị trường. Can thiệp kịp thời để ngăn chặn các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá nhằm thu lợi bất chính hoặc lợi dụng chủ trương điều hành giá xăng dầu và giá một số mặt hàng khác để tăng giá hàng hóa, dịch vụ không hợp lý. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về đăng ký giá, kê khai giá theo đúng quy định.

Ba là, thực hiện hiệu quả lộ trình tái cấu trúc đầu tư công. Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ. Tăng cường vai trò của các địa phương trong quản lý các dự án được giao quản lý. Khẩn trương hoàn thiện chương trình hành động tổng thể cũng như hàng năm nhằm kiểm soát hiệu quả hơn vấn đề chuyển giá trong hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Bốn là, nâng cao năng lực quản trị của các doanh nghiệp theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và minh bạch hóa thông tin, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm quản lý vĩ mô phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thị trường. Bên cạnh quản trị tốt về tài chính, các doanh nghiệp cần tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro để hạn chế tổn thất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm đạt hiệu quả cao.

Năm là, xây dựng và thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng chính sách chịu tác động lớn khi Nhà nước điều chỉnh giá một số mặt hàng điện, xăng dầu, than và giá dịch vụ công theo cơ chế thị trường. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của năm 2012 về công tác an sinh xã hội, đó là tạo việc làm, giảm thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động và hỗ trợ đời sống cho người dân, đặc biệt là người nghèo. Tiến hành rà soát, sửa đổi các chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011- 2020. Trên cơ sở đó, từng bước giải quyết những vấn đề còn tồn tại như: Giảm nghèo chưa thực sự bền vững; người dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn; phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn; tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn cao, v.v.