Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ 6 tháng đầu năm 2017

Theo Tổng cục Thống kê

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 5/2017 đạt 17.931 triệu USD, cao hơn 731 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 234 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác cao hơn 98 triệu USD; giày dép cao hơn 81 triệu USD; thủy sản cao hơn 60 triệu USD; dầu thô cao hơn 57 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng cao hơn 48 triệu USD; hạt điều cao hơn 34 triệu USD; sắt thép cao hơn 31 triệu USD. 

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu ước tính đạt 17,80 tỷ USD, giảm 0,7% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,80 tỷ USD, giảm 2,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,00 tỷ USD, xấp xỉ kim ngạch xuất khẩu tháng trước.

Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm so với tháng trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác giảm 8,2%; điện thoại và linh kiện giảm 8,1%; giày dép giảm 2,2%.

Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với tháng trước: Dệt, may tăng 14,1%; dầu thô tăng mạnh tới 46,8%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu tăng 20,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 11,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 24,7%.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng khá: Điện thoại và linh kiện tăng 43,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 37,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 24%.  

Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 97,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 27 tỷ USD, tăng 13,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 70,8 tỷ USD, tăng 21%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2016.  

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 20,1 tỷ USD, tăng 18,3%; hàng dệt may đạt 11,6 tỷ USD, tăng 7%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 11,3 tỷ USD, tăng 42,3%; giày dép đạt 7 tỷ USD, tăng 11,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,1 tỷ USD, tăng 36,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,6 tỷ USD, tăng 13,5%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, tăng 15,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,3 tỷ USD, tăng 15%; cà phê đạt 1,9 tỷ USD, tăng 9,9% (lượng giảm 15,5%); rau quả đạt 1,7 tỷ USD, tăng 50,4%; dầu thô đạt 1,6 tỷ USD, tăng 39,2% (lượng tăng 10,1%); hạt điều đạt 1,4 tỷ USD, tăng 20,3% (lượng giảm 4,7%).

Tuy nhiên, có một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm: Hạt tiêu đạt 724 triệu USD, giảm 15,5% (lượng tăng 20,4%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 500 triệu USD, giảm 9,9% (lượng giảm 5,7%); đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 256 triệu USD, giảm 52%.  

Về cơ cấu hàng xuất khẩu, 6 tháng đầu năm nay nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 47,8 tỷ USD, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 48,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 3,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2016), trong đó điện thoại và linh kiện đạt 20,1 tỷ USD, tăng 18,3% và chiếm 20,5%.

Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 37 tỷ USD, tăng 11% và chiếm 37,8% (giảm 2,7 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 9,5 tỷ USD, tăng 16% và chiếm 9,7% (giảm 0,2 điểm phần trăm). Hàng thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, tăng 15,6% và chiếm 3,6% (giảm 0,1 điểm phần trăm). 

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 19,6 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó: Hàng dệt may tăng 3,6%; giày dép tăng 12,9%; điện thoại và linh kiện tăng 9,1%.

Tiếp đến là EU với 18,2 tỷ USD, tăng 12,6%, trong đó: Điện thoại và linh kiện tăng 12,7%; giày dép tăng 5,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 25,5%.

Trung Quốc đạt 13 tỷ USD, tăng 42,5%, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 94,5%; rau quả tăng 58,5%; xơ sợi dệt tăng 30,2%. Thị trường ASEAN đạt 10,4 tỷ USD, tăng 26,7%, trong đó: Điện thoại và linh kiện tăng 31,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 95%.

Nhật Bản đạt 8 tỷ USD, tăng 19,5%, trong đó: Dệt, may tăng 9,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 15,2%. Hàn Quốc đạt 6,6 tỷ USD, tăng 29,1%, trong đó: Điện thoại và linh kiện tăng 29,6%; dệt, may tăng 22,5%. 

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 5/2017 đạt 18.459 triệu USD, cao hơn 459 triệu USD so với số ước tính, trong đó: Điện thoại và linh kiện cao hơn 99 triệu USD; xăng dầu cao hơn 71 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 59 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 57 triệu USD; vải cao hơn 40 triệu USD; tân dược cao hơn 30 triệu USD; sản phẩm chất dẻo cao hơn 26 triệu USD.  

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu ước tính đạt 18,00 tỷ USD, giảm 2,5% so với tháng trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 7,25 tỷ USD, giảm 1,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,75 tỷ USD, giảm 3,4%.

Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 1,7%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 5,3%; vải giảm 3,5%; sắt thép giảm 4,5%; chất dẻo giảm 2,8%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép giảm 5,4%; sản phẩm chất dẻo giảm 1,2%.

So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu tăng 21,6%, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước tăng 11,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,2%. Một số mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công lắp ráp trong nước có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 31,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 27,8%; điện thoại và linh kiện tăng 49,8%.  

Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 100,5 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ USD, tăng 18,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 60,6 tỷ USD, tăng 28,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2017 tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước.  

Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết mặt hàng trong 6 tháng đầu năm tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 18,4 tỷ USD, tăng 37,8%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 16,2 tỷ USD, tăng 28,2%; điện thoại và linh kiện đạt 6,2 tỷ USD, tăng 29,5%; vải đạt 5,6 tỷ USD, tăng 10,1%; sắt thép đạt 4,7 tỷ USD, tăng 24,3% (lượng giảm 16,1%); chất dẻo đạt 3,5 tỷ USD, tăng 24,6% (lượng tăng 14,2%); xăng dầu đạt 3,4 tỷ USD, tăng 31,4% (lượng tăng 1,7%); nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,7 tỷ USD, tăng 9,5%; kim loại thường khác đạt 2,7 tỷ USD, tăng 19,8% (lượng giảm 13,8%); sản phẩm chất dẻo đạt 2,5 tỷ USD, tăng 20,6%; sản phẩm hóa chất đạt 2,1 tỷ USD, tăng 18,7%; hóa chất đạt 2 tỷ USD, tăng 34,8%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,7 tỷ USD, tăng 15,5%; tân dược đạt 1,3 tỷ USD, tăng 4%; bông đạt 1,3 tỷ USD, tăng 58,6% (lượng tăng 33,2%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,1 tỷ USD, tăng 21%. 

Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 92,2 tỷ USD, tăng 24,6% và chiếm 91,7% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (giảm 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2016), trong đó: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 43,8 tỷ USD, tăng 27% và chiếm 43,6% (tăng 1,0 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 48,4 tỷ USD, tăng 22,6% và chiếm 48,1% (giảm 0,6 điểm phần trăm).

Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 8,3 tỷ USD, tăng 18,6% và chiếm 8,3% (giảm 0,3 điểm phần trăm). 

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2017, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 27,1 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công lắp ráp tăng: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 28%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 29,2%; điện thoại và linh kiện tăng 13,8%.

Thị trường Hàn Quốc đứng ở vị trí thứ hai đạt 22,5 tỷ USD, tăng 51,2%, trong đó: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 123,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 46,1%; điện thoại và linh kiện tăng 37,7%. Tiếp theo là thị trường ASEAN đạt 13,6 tỷ USD, tăng 17,6%, trong đó: Xăng dầu tăng 11,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 2,7%.

Nhật Bản đạt 7,7 tỷ USD, tăng 10,7%, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 22,8%; sắt thép tăng 17,9%. EU đạt 5,8 tỷ USD, tăng 16,3%, trong đó: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 12,9%; dược phẩm tăng 2,6%. Hoa Kỳ đạt 4,8 tỷ USD, tăng 27,2%, trong đó: Bông tăng 104,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 38,5%. 

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Năm nhập siêu 528 triệu USD; tháng Sáu ước tính nhập siêu 200 triệu USD. Tính chung 6 tháng năm 2017 nhập siêu 2,70 tỷ USD, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,22 tỷ USD.

Xuất, nhập khẩu dịch vụ 

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2017 ước tính đạt 6,4 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ du lịch đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 67,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 6,4%; dịch vụ vận tải đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 19,5% và tăng 8,8%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 8,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ vận tải đạt 3,9 tỷ USD, chiếm 47,6% tổng kim ngạch nhập khẩu và giảm 1,8%; dịch vụ du lịch đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 29,1% và tăng 15,6%. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2017 ước tính đạt 1,8 tỷ USD, bằng 27,3% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.