Thực hiện BHXH, BHYT cho người lao động – những thách thức cần vượt qua

H. Huy

Ở Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn cải cách chính sách BHXH, nhất là từ sau khi khi Bộ luật Lao động, Luật BHXH có hiệu lực, việc thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục được cải cách trong thời gian tới.

Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH ngày càng được mở rộng.
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH ngày càng được mở rộng.

Hệ thống chính sách BHXH được thiết kế, vận hành ngày càng phù hợp

BHXH, BHYT là những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là các trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định và phát triển chính trị, kinh tế - xã hội. Trải qua các giai đoạn phát triển, chính sách BHXH, BHYT đã đạt được những kết quả tích cực.

Đến nay, nước ta đã hình thành được hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc tế, gồm cả loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động lẫn người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức lẫn khu vực phi chính thức.

Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp. Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh xã hội lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH.

Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH được mở rộng và ngày càng tăng. Nếu như trước đây, đối tượng tham gia BHXH của nước ta chỉ bó hẹp trong công nhân, viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang thì hiện nay đối tượng tham gia BHXH được mở rộng đến cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng trở lên.

Tính đến tháng 3/2019, số người tham gia BHXH của cả nước đạt gần 14,7 triệu người (trong đó số tham gia BHXH bắt buộc là 14,37 triệu người, BHXH tự nguyện là trên 0,3 triệu người).

Đối tượng tham gia BHYT phát triển nhanh chóng, đặc biệt là những người thuộc diện chính sách xã hội (như người nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người có công với cách mạng, cựu chiến binh, người cao tuổi…) đã tham gia BHYT đạt tỷ lệ 100%. Đáng chú ý, diện bao phủ BHYT đã tăng từ 60% vào năm 2010 lên gần 88% (82,7 triệu người) năm 2019.

Mô hình tổ chức hệ thống BHXH cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế với việc tách cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính sách đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách, thu, chi và quản lý Quỹ BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng cường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp Luật BHXH được chú trọng; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nhiều chuyên gia cho rằng, cần nhìn nhận rằng, việc tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH vẫn còn nhiều hạn chế như diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp.

Hệ thống BHXH về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia. Tính đến tháng 3/2019, cả nước mới chỉ đạt 30,4% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, vẫn còn gần 70% chưa tham gia.

Mục tiêu đến năm 2020, có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH theo Nghị quyết số 15-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị không đạt được.

Các nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.

Công thức tính lương hưu giữa nam và nữ, giữa lao động khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước còn có sự không công bằng. Nhận thức của một bộ phận người lao động và người sử dụng lao động về BHXH chưa đầy đủ. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật hiệu quả chưa cao. Một bộ phận cán bộ làm công tác BHXH chưa thay đổi tư duy từ hành chính sang phục vụ khách hàng.

Những thách thức cần vượt qua

Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân nước ta ngày càng lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, chất lượng từng bước được nâng lên nhiều mặt, cuộc sống được cải thiện. An sinh xã hội được bảo đảm là điều kiện tiên quyết thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng. 

Trong bối cảnh hiện nay, với xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, công tác bảo đảm an sinh xã hội nói chung và thực hiện BHXH, BHYT cho người lao động nói riêng đang  đặt ra không ít thách thức.

Với những thay đổi mang tính cách mạng về khoa học và công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xem là cơ hội cho việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội.

Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, nếu không bắt kịp nhịp độ phát triển chung, cuộc Cách mạng này có thể khiến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam phải đối mặt với những thách thức, tác động tiêu cực, đặc biệt là những tác động không mong muốn đối với thị trường lao động, ảnh hưởng tới mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội nói chung và thực hiện các chính sách BHXH, BHYT cho người lao động nói riêng.

Các nhà sản xuất sẽ ngày càng quan tâm hơn tới việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ để tự động hóa sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo đảm an toàn tại nơi làm việc. Ðiều đó một mặt tạo điều kiện phát triển việc làm cho những lao động có trình độ, kỹ năng và khả năng sáng tạo, nhưng ở chiều ngược lại, những lao động phổ thông, đảm nhận những công đoạn sản xuất giản đơn sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt về việc làm, mất việc…

Một báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) công bố tháng 7/2016 cho thấy, trong 10 năm tới, Việt Nam có đến 86% lao động trong các ngành dệt may, da giày có nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ. Thị trường lao động bị thu hẹp cũng đồng nghĩa với việc đội ngũ lao động trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong tìm kiếm việc làm, bảo đảm thu nhập.

Những vấn đề này đương nhiên sẽ khiến cuộc sống của người lao động khó được bảo đảm; đồng thời tạo ra sức ép rất lớn đối với hệ thống an sinh xã hội ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ðặc biệt, với hệ thống BHXH - trụ cột của an sinh xã hội, tương lai bấp bênh của người lao động sẽ khiến bài toán mở rộng diện bao phủ ngày càng trở nên khó giải quyết; tính bền vững, liên tục của các chương trình bảo hiểm cũng khó được bảo đảm.

Bên cạnh đó, trong một thế giới ngày càng năng động, đồng thời có tính di động cao hơn, người lao động có thể làm việc từ khắp mọi nơi mà không nhất thiết phải gắn với một doanh nghiệp; do vậy hệ thống BHXH truyền thống gắn với doanh nghiệp tỏ ra chưa bắt kịp với xu hướng mới này. Đây là thách thức đáng kể, đòi hỏi phải có sự thay đổi của hệ thống an sinh xã hội nói chung, chính sách BHXH, BHYT nói riêng thích ứng với các điều kiện mới ở trong kỷ nguyên số.

Để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách về BHXH, BHYT ở nước ta trong bối cảnh mới, theo nhận định của các chuyên gia, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cơ bản sau:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách BHXH, BHYT. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT để mọi người dân thấy rõ vai trò, ý nghĩa của chính sách BHXH, BHYT đối với việc ổn định đời sống nhân dân, ổn định kinh tế - xã hội và bảo đảm an sinh xã hội; sự cần thiết và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách BHXH, BHYT để tạo sự đồng thuận xã hội.

Hai là, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH, BHYT. Thể chế hóa các chủ trương và hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT kết hợp với hoàn thiện chính sách, pháp luật về chế độ tiền lương, việc làm và các lĩnh vực có liên quan khác.

Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH theo hướng tiến tới thực hiện BHXH toàn dân; thiết kế hệ thống BHXH đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng BHXH, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Đồng thời, hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi BHXH, BHYT…

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH, BHYT nhất là việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH, BHYT. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH, BHYT.

Bốn là, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/ TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng Quản lý BHXH; thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán và thông tin báo cáo về BHXH theo quy định của pháp luật.

Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT theo đúng định hướng XHCN, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT và tuân thủ pháp luật về BHXH, BHYT.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT.