Những điểm mới trong dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng về văn hóa – xã hội

GS.TS Phùng Hữu Phú

Nói những điểm mới trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, trong đó có những nội dung về văn hoá - xã hội, là nói những nội dung được bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở kế thừa, phát triển những quan điểm, chủ trương đã có.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị, Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 (gọi chung là dự thảo Văn kiện), những nội dung về văn hoá, xã hội được trình bày thành 4 vấn đề: (1) Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; (2) Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; (3) Phát triển văn hoá, xây dựng con người; (4) Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Hiểu theo nghĩa rộng, giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là bộ phận của văn hoá, song vì đây là hai lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nên dự thảo văn kiện trình bày thành hai vấn đề riêng. Dự thảo văn kiện kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng; tiếp thu, chọn lọc những nội dung cốt lõi của các nghị quyết Trung ương khoá XI về văn hoá, xã hội, nâng lên tầm văn kiện, đồng thời căn cứ vào yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước để lựa chọn những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp và có thể thực hiện được trong 5 năm tới, trong đó có những điểm mới nổi bật.

I- Về phương hướng, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ gắn với phát triển nguồn nhân lực

1- Dự thảo Văn kiện tiếp tục khẳng định quan điểm: giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. Đại hội XI của Đảng đã định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ và xác định khâu đột phá chiến lược: "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới văn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ"[1] .

Kế thừa, cụ thể hoá và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Dự thảo Văn kiện xác định: (1) Phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực; chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn; (2) Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thật sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.

2- Đồng thời với việc xác định những phương hướng chính, những nhiệm vụ chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, dự thảo văn kiện đặc biệt chú trọng các nhiệm vụ, giải pháp gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược.

Trước hết, giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ phải gắn kết, tương tác lẫn nhau. Đổi mới giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao tiềm năng, kỹ năng sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ của con người; khoa học, công nghệ phải gắn bó và thông qua nguồn nhân lực được đào tạo để thâm nhập sâu vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Hướng đích của đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ là phục vụ thiết thực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, trước hết là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, theo đó là chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Giáo dục, đào tạo hướng vào: (1) Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh doanh; (2) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực; (3) Tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung - cầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả; (4) Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý, đầu tư; (5) đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp...

Khoa học, công nghệ tập trung: (1) Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức; (2) Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ; (3) Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ, phát triển thị trường khoa học công nghệ, đồng thời hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ; (4) Có chính sách đào tạo, trọng dụng, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, nhất là các chuyên gia có nhiều đóng góp; khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ tại Việt Nam.

II- Về phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam

1- Kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" và những nội dung Văn kiện Đại hội XI của Đảng về văn hoá, Hội nghị Trung ương 9 khoá XI đã ban hành Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".

Vận dụng những quan điểm của Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI vào điều kiện, yêu cầu 5 năm tới, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả: (1) mục tiêu xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; (2) làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

2- Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XI, Đảng xác định 4 nhiệm vụ: (1) Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; (2) Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng; (3) Phát triển hệ thống thông tin đại chúng; (4) Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá. Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI nêu 6 nhiệm vụ và đề ra 4 nhóm giải pháp.

Cân nhắc yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước trong 5 năm tới, kế thừa có chọn lọc Văn kiện Đại hội XI và tiếp thu những định hướng được nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI về văn hoá, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII lựa chọn, định hướng 7 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó nhấn mạnh một số nội dung mới:

Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là: (1) Đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hoá và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân; (2) tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn; (3) Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.

Gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng: (1) Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình; (2) Phát huy vai trò văn hoá trong gia đình, nhà trường, cộng đồng; (3) Thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; (4) Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; (5) Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng.

Đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế : (1) Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; (2) Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân.

Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá: (1) Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá; (2) Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển; (3) Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá...

III- Về phương hướng và giải pháp quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đặc biệt là bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội là một trong những thành tựu nổi bật trong 30 năm đổi mới, trực tiếp là trong 5 năm qua. Dự thảo Văn kiện xác định những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn vấn đề này trong 5 năm tới. Điểm nhấn và cũng là điểm mới trong dự thảo Văn kiện là vấn đề quản lý phát triển xã hội.

1- Đại hội XI của Đảng đã đề ra những định hướng quan trọng về quản lý phát triển xã hội. Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011 định hướng: Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 nhấn mạnh: Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Báo cáo chính trị trình Đại hội XI xác định: phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn; đấu tranh phòng chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông...[2] Trên thực tế, những định hướng nêu trên chậm được thể chế hoá, cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện, dẫn đến những bất cập về nhận thức và lúng túng trong hoạt động thực tiễn.

Quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Đại hội XI vào điều kiện 5 năm tới, Dự thảo Văn kiện nêu rõ: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (2) Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; (3) Có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội.

2- Về nhiệm vụ, giải pháp, Dự thảo Văn kiện xác định một số định hướng chủ yếu: (1) Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững; (2) Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý; (3) Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội; (4) Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người.

Những điểm mới về văn hoá, xã hội nêu trong dự thảo Văn kiện Đại hội XII phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng. Những nhận thức này đang được cán bộ, đảng viên, nhân dân nghiên cứu, đóng góp ý kiến để bổ sung, hoàn thiện. Sau khi được Đại hội XII nhất trí thông qua sẽ trở thành những định hướng chính trị hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân phấn đấu triển khai, tạo những chuyển biến mới trong đời sống văn hoá, xã hội theo mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 106.

[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd.