Chính sách thuế tiếp sức doanh nghiệp phát triển

Nguyễn Văn Phụng

Trong những năm qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp (DN) vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh. Năm 2015, DN lại tiếp tục đón nhận nhiều chính sách thuế mới cùng những cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính từ Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế... tạo động lực quan trọng để vượt qua khó khăn, phát triển bền vững.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Thuế xuất nhập khẩu

Trọng tâm được đặt ra đối với thuế xuất nhập khẩu là thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế về tự do hoá thương mại đồng thời thực hiện bảo hộ hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, tăng độ minh bạch, tạo cơ hội cho DN giảm thấp chi phí vật tư đầu vào phải nhập khẩu của sản xuất kinh doanh (SXKD). Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các thông tư hướng dẫn về Biểu thuế đặc biệt ưu đãi giai đoạn 2015 – 2018 theo các Hiệp định thương mại tự do như: Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA), ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA), ASEAN – Nhật Bản (AJCEP), ASEAN – Úc – New Zealand (AANZFTA), ASEAN - Ấn Độ (AIFTA), Việt Nam – Chile (VCFTA) và Hiệp định đối tác toàn diện với Nhật Bản (VJEPA), đặc biệt là Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Công đồng kinh tế ASEAN (AEC).

Tính đến nay, mức độ tự do hóa trong khu vực ASEAN đạt tỷ lệ cao nhất với khoảng 75% số dòng thuế nhập khẩu đã được cắt giảm xuống mức 0%. Bên cạnh đó, việc gia nhập AEC đòi hỏi cắt giảm thuế quan nhanh hơn và rộng hơn, theo đó các dòng thuế đã cam kết trong AFTA sẽ về mức 0% sớm hơn mà không nhất thiết phải đợi đến năm 2018; Đối với những mặt hàng chưa có cam kết xoá bỏ thuế thì nay cũng phải đưa vào cam kết cắt giảm.

Riêng 2 nhóm hàng được loại trừ nghĩa vụ xóa bỏ thuế quan gồm: (i) Các mặc hàng an ninh quốc phòng (vũ khí, đạn dược) hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe (cần sa, thuốc phiện)… và (ii) Các mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm được duy trì mức thuế thấp 5%. Với việc cắt giảm này, các DN Việt Nam sẽ chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn với hàng nhập khẩu cùng loại được sản xuất từ các nước nhưng DN Việt Nam cũng được hưởng lợi nhiều khi thị trường xuất khẩu được mở rộng, việc bán hàng vào các nước thuộc AEC sẽ không bị áp thuế nhập khẩu cùng với xoá bỏ các rào cản thương mại phi thuế quan.

Thuế thu nhập doanh nghiệp

Những vấn đề DN quan tâm nhất là mức động viên về thuế suất, quy định về các chi phí được trừ khi xác định nghĩa vụ thuế và các quy định về ưu đãi thuế. Từ năm 2015 trở đi, cả 3 nội dung này đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật số 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2015/NĐ-CP đó là:

Về thuế suất: Hạ mức động viên từ 25% xuống còn 22% từ năm 2014 và từ năm 2016 mức thuế suất phổ thông được hạ xuống 20%. Riêng các DN nhỏ và vừa (doanh thu từ 20 tỷ đồng/năm trở xuống) được ưu tiên áp mức thuế 20% ngay từ nửa cuối năm 2013. Đây là mức thuế có tính cạnh tranh cao so với các nước trên thế giới và khu vực AEC. Bên cạnh đó, DN được ưu đãi và bảo hộ đầu tư theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã ký kết với các nước.

Về chi phí được trừ khi tính thuế: Điểm nhấn chú ý nhất trong chính sách thuế từ năm 2015 trở đi là gỡ bỏ hoàn toàn giới hạn đối với khoản chi về quảng cáo, tiếp thị, phát triển thị trường. Theo đó, những khoản chi trên, DN được tính vào chi phí, được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Với khoản chi mua hàng hoá của người sản xuất trực tiếp bán ra không có hoá đơn, mua của người kinh doanh thuộc diện miễn thuế không có hoá đơn thì lập bảng kê chứng từ để tính vào chi phí. DN cũng được tính vào chi phí được trừ đối với các khoản chi cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp, khoản chi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của DN theo quy định của pháp luật.

Về ưu đãi thuế TNDN: Có 3 nội dung mới mà DN được hưởng lợi từ năm 2015:

Thứ nhất, ưu đãi đối với DN có thu nhập từ nông nghiệp. Từ năm 2015, áp dụng ưu đãi thuế đối với thu nhập từ đầu tư, sản xuất kinh doanh trong khu vực nông nghiệp, nông thôn theo nguyên tắc: Hợp tác xã được ưu tiên cao hơn DN; Hoạt động tại vùng khó khăn được ưu đãi hơn vùng thuận lợi; Thu nhập từ hoạt động chế biến nông sản, thuỷ sản cũng được ưu đãi ngang bằng với ưu đãi cho hoạt động trồng trọt, chăn nuôi tạo ra sản phẩm chưa qua chế biến, cụ thể là:

- Mở rộng diện miễn thuế TNDN đối với thu nhập của DN từ chế biến nông sản, thủy sản ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH) đặc biệt khó khăn và đánh bắt hải sản.

- Áp dụng mức thuế ưu đãi 10% (mức thuế thấp nhất) đối với thu nhập của DN từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng, chế biến nông, thủy sản ở địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn; nuôi trồng lâm sản ở địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối; đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông sản, thủy sản và thực phẩm.

- Mức thuế suất ưu đãi 15% đối với thu nhập của DN trồng trọt, chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản ở các địa bàn còn lại, kể cả thu nhập từ dự án đầu tư chế biến nông sản, thuỷ sản thực hiện tại địa bàn khu công nghiệp, tại địa bàn các quận/huyện không thuộc địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn hoặc không thuộc địa bàn đặc biệt khó khăn.

Thứ hai, ưu đãi thuế cao hơn từ năm 2015 nhằm khuyến khích DN đầu tư vào các dự án công nghiệp hỗ trợ, dự án ứng dụng công nghệ cao. Mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với thu nhập của DN được tạo ra từ các dự án đầu tư mới thuộc các trường hợp sau:

- Dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển đáp ứng một trong các tiêu chí: (i) Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao; (ii) Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất sản phẩm các ngành dệt – may, da - giầy, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo mà các sản phẩm này tính đến ngày 01/01/2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh Châu Âu (EU) hoặc tương đương.

- Dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12 nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ phải được thẩm định theo quy định của Luật Công nghệ cao, Luật Khoa học và công nghệ, thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 5 năm kể từ ngày được phép đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Thứ ba, ưu đãi thuế nhằm thu hút các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, các dự án sản xuất có tác động lan toả trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng miền và cả nước… Theo đó, Thủ tướng Chính phủ được quyền quy định việc kéo dài thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi 10% đến 15 đối với các dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12 nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ được thẩm định theo quy định của Luật Công nghệ cao, Luật Khoa học và công nghệ, thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 5 năm, đồng thời, dự án này đáp ứng một trong các tiêu chuẩn:

- Dự án sản xuất sản phẩm hàng hóa có khả năng cạnh tranh toàn cầu, doanh thu đạt trên 20.000 tỷ đồng/năm chậm nhất sau 5 năm kể từ khi có doanh thu từ dự án đầu tư;

- Dự án sử dụng thường xuyên trên 6.000 lao động;

- Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực hạ tầng kinh tế kỹ thuật như: đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước, cầu, đường bộ, đường sắt, cảng hàng không, cảng biển, cảng sông, sân bay, nhà ga, năng lượng mới, năng lượng sạch, công nghiệp tiết kiệm năng lượng, dự án lọc hóa dầu.

Các quy định mới về thuế GTGT, tạo thuận lợi cho nông nghiệp và DN xuất khẩu hoặc SXKD các mặt hàng nông sản

Từ trước đến nay, chính sách thuế GTGT đã được thiết kế theo hướng giảm tối đa mức động viên từ khu vực nông nghiệp, nông thôn: (i) Toàn bộ sản phẩm đầu ra của khâu sản xuất trực tiếp thuộc diện không chịu thuế GTGT; (ii) Các vật tư, nguyên liệu, dịch vụ đầu vào thiết yếu của nông nghiệp cũng không phải chịu thuế GTGT; (iii) Một số hàng hoá, dịch vụ cho nông nghiệp được áp dụng thuế GTGT ở mức thấp 5% như máy móc, thiết bị, phân bón... dùng cho sản xuất nông nghiệp.

Các quy định về chính sách tiếp tục áp dụng trong năm 2015 nhằm tạo thuận lợi cho DN tiết giảm chi phí về vốn đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế để bán nội địa hoặc xuất khẩu. Theo đó, DN mua các mặt hàng này sẽ không phải nộp thuế 5%, khi xuất bán cho DN hoặc hợp tác xã nộp thuế theo phương pháp khấu trừ không phải khai, không phải nộp thuế GTGT đầu ra 5% và nếu xuất khẩu thì Nhà nước không phải hoàn thuế. Như vậy, quy định này làm tăng lợi ích cho toàn xã hội khi giảm chi phí quản lý đối với hoàn thuế GTGT, ngăn chặn lợi dụng cơ chế hoàn thuế GTGT để chiếm đoạt tiền hoàn thuế.

Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ trưởng Bộ Tài chính về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, ngành Thuế đã xây dựng Kế hoạch hành động nhằm thực hiện mục tiêu tạo thuận lợi cho người nộp thuế, nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ; đơn giản hoá thủ tục hành chính (TTHC). Tính đến ngày 01/01/2015 số giờ tuân thủ về thuế đã cắt giảm được 369,86 giờ/năm, năm 2015 phấn đấu giảm tiếp 45,5 giờ nộp thuế để đạt mức 171 giờ/năm, bằng mức bình quân của 6 nước ASEAN theo chỉ đạo của Chính phủ.

Nhiệm vụ cải cách hành chính của ngành Thuế được đề ra cho năm 2015 – 2016 theo tinh thần Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP là: Giảm thời gian khai, nộp thuế xuống còn không quá 121,5 giờ/năm; Tỷ lệ DN khai thuế điện tử đạt trên 95%; Tỷ lệ DN nộp thuế điện tử đạt tối thiểu 90%; Xây dựng và công khai cơ sở dữ liệu về hoàn thuế, đảm bảo hoàn thuế đúng chế độ và ít nhất 90% đúng thời gian quy định; Năm 2016 phấn đấu đạt mức ASEAN-4 về cải cách hành chính thuế đối với 03 nhóm chỉ tiêu mới là: Kiểm tra trước hoàn thuế; thực hiện quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế; thời hạn và kết quả xử lý những khiếu nại về thuế. Quán triệt thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, từ đầu năm 2015 đến nay, ngành Thuế đã và đang khẩn trương triển khai các giải pháp cụ thể:

- Soạn thảo trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 26/2015/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/2015 và Luật số 71/2014, làm cơ sở để cắt giảm nhiều thủ tục, đơn giản các mẫu tờ khai, giảm thời gian kê khai, nộp thuế GTGT, thuế tài nguyên, xuất hoá đơn, kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào cho DN. Các quy định chính sách và thủ tục thuận lợi về thuế TNDN cũng được đưa vào dự thảo thông tư hướng dẫn, lấy ý kiến cộng đồng DN trước khi ban hành. Như vậy, tiếp theo Thông tư số 119/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung 7 thông tư; Thông tư số 151/2014/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 91/2014, kể từ năm 2015 sẽ có khoảng 95% số DN chuyển sang khai thuế GTGT theo quý (giảm 8 lần khai trong năm). DN không phải nộp bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào/bán ra kèm theo Tờ khai thuế GTGT và không phải hạch toán tăng doanh thu tính thuế; không phải xuất hoá đơn đối với hàng hoá tiêu dùng nội bộ cho SXKD; đồng thời, sửa quy định về tỷ giá ngoại tệ đối với các giao dịch mua/bán có gốc ngoại tệ cho phù hợp với thực tế...

- Triển khai thực hiện các nội dung cải cách TTHC, ngành Thuế đã rà soát, trình Bộ Tài chính sửa đổi, bãi bỏ các nội dung như: Điều chỉnh sự khác biệt về quy định giữa doanh thu kế toán và doanh thu tính thuế TNDN đối với dịch vụ trả tiền trước; hồ sơ, thủ tục đối với tài sản, hàng hoá bị tổn thất; bỏ quy định DN phải tự xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu; các nội dung liên quan đến quy định khống chế phần chi phí vượt định mức. Theo tính toán, nếu thực hiện sửa đổi hoặc bãi bỏ các thủ tục nêu trên sẽ giảm tiếp trên 30 giờ cho người nộp thuế.

- Đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án khai thuế điện tử và nộp thuế điện tử. Để đạt được mức phấn đấu số DN kê khai thuế điện tử đạt trên 95%, nộp thuế điện tử tối thiểu đạt 90% trước 30/9/2015, Tổng cục Thuế giao chỉ tiêu cụ thể cho từng cục thuế và yêu cầu các cục thuế giao đến từng chi cục thuế nhiệm vụ nộp thuế điện tử. Đồng thời, trình Bộ Tài chính bổ sung quy định về gia hạn nộp thuế đối với DN thực hiện nộp thuế điện tử nhưng hệ thống bị lỗi mạng, nghẽn mạng, phần mềm gặp sự cố, trang thiết bị cơ quan thuế gặp sự cố; Tổng cục Thuế thống nhất với Kho bạc Nhà nước về tài khoản chuyên thu tại các ngân hàng thương mại để tạo thuận lợi cho nộp thuế điện tử.

Ngày 18/5/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 912/QĐ-BTC về việc triển khai mở rộng nộp thuế điện tử cho tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN và xử lý sự cố nộp thuế điện tử để bảo đảm cho việc triển khai thuế điện tử được an toàn, thuận tiện, bảo đảm quyền lợi của DN. Có thể nói, với các giải pháp trên, số giờ nộp thuế sẽ giảm tiếp được khoảng trên 50 giờ, đạt được mục tiêu Nghị quyết 19/NQ-CP đề ra. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế cũng triển khai thí điểm kê khai điện tử, nộp điện tử đối với các khoản thu: Lệ phí trước bạ khi đăng ký ô tô, xe máy, nhà đất, thuế với hoạt động cho thuê nhà, thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng bất động sản.

- Tổng cục Thuế đã thành lập ban chỉ đạo và 07 tổ soạn thảo quy trình nghiệp vụ để rà soát tổng thể các quy trình, quy chế về quản lý thuế và chuyên môn nghiệp vụ liên quan và công khai minh bạch quy trình, quy chế để người nộp thuế biết và theo dõi, giám sát. Kết quả là đã rà soát đối với 70 quy trình, quy chế (có 60 quy trình, quy chế hiện có và 10 quy trình, quy chế đang xây dựng mới lần đầu), trong đó có 30 quy trình, quy chế liên quan trực tiếp đến người nộp thuế. Qua rà soát, Tổng cục Thuế đang sửa đổi, bổ sung đối với 17 quy trình, quy chế, phấn đấu sửa đổi, bổ sung 100% quy trình liên quan đến kê khai, nộp thuế của người nộp thuế theo nội dung cải cách TTHC gắn với ứng dụng CNTT.

- Trên cơ sở sơ kết, đánh giá về tình hình triển khai thực hiện ứng dụng quản lý thuế tập trung (TMS) tại 27/63 Cục Thuế và triển khai mới tại tất cả các Cục Thuế địa phương còn lại. Đồng thời, ban hành quyết định phê duyệt mô tả vị trí công việc đối với 15 vị trí công tác tại cơ quan thuế các cấp phục vụ việc xây dựng chế độ trách nhiệm đối công chức khi giải quyết TTHC cho người nộp thuế; Tiếp tục thực hiện kế hoạch hành động với giải pháp như: Đổi mới, nâng cao nhận thức đối với đội ngũ cán bộ công chức thuế về yêu cầu cần thiết, cấp bách của việc cải cách hành chính, xây dựng chế độ trách nhiệm cụ thể đối với từng vị trí công tác, xây dựng thái độ phục vụ của công chức thuế; Thực hiện nghiêm minh kỷ cương, kỷ luật của ngành, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan thuế; Thực hiện rà soát giảm tối thiểu 10% số TTHC thuế, đơn giản hóa tối thiểu 20% số thủ tục theo hướng giảm số chứng từ trong hồ sơ khai thuế, chứng từ nộp thuế trước 30/6/2015.

- Thực hiện ứng dụng CNTT ở cấp độ 4 đối với công tác hoàn thuế, tối thiểu đạt 60% số tờ khai và số tiền hoàn thuế trước 30/9/2015 và đạt 95% vào trước ngày 30/9/2016. Thực hiện nhiệm vụ này, cần trình Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn mới về hoàn thuế GTGT; Xây dựng ứng dụng hỗ trợ giải quyết hồ sơ hoàn thuế từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi ra báo cáo kết quả hoàn thuế, hiện đang áp dụng thực hiện tại các Cục Thuế.

- Cùng với việc thực hiện công khai thông tin về TTHC thuế và quy trình giải quyết TTHC thuế theo cơ chế một cửa tại cơ quan thuế và trên Trang thông tin điện tử cơ quan thuế, thực hiện xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho người nộp thuế Tập trung thống nhất trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin cấp độ 4 (hoàn thành trước 31/12/2015).

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để xây dựng cơ chế phối hợp, thu thập thông tin quản lý nhà nước nhằm phục vụ cho quản lý thuế. Trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu về người nộp thuế tập trung thống nhất toàn quốc (đối với DN, tổ chức hoàn thành trước 30/9/2015. Đối với hộ, cá nhân hoàn thành trước 30/9/2016) để thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế dựa trên đánh giá rủi ro, qua đó phòng ngừa các hành vi gian lận, trốn thuế, chống thất thu, chống gian lận về khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Nhằm bảo đảm tính khách quan, dân chủ, phát huy vai trò giám sát của xã hội, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu trình Bộ Tài chính: (i) Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện việc tổ chức tư vấn với thành phần gồm đại diện cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, đại diện hiệp hội DN, ngành nghề để tư vấn cho cơ quan thuế khi thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại của người nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật; (ii) Xây dựng đề án về việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan tăng cường công tác hỗ trợ tư vấn giúp cơ quan thuế xử lý những vấn đề vướng mắc.

- Để chương trình cải cách hành chính và đổi mới chính sách thuế như đã nêu trên đi vào cuộc sống, cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế đánh giá của các tổ chức xã hội, hiệp hội ngành nghề, duy trì hệ thống tiếp nhận thông tin phản hồi của người nộp thuế. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế.

- Trong quá trình triển khai các giải pháp nêu trên, thường xuyên rà soát các vấn đề khó khăn trong cơ chế, chính sách để trình các cấp có thẩm quyền xem xét, sớm sửa đổi, bổ sung.