Mở rộng diện ưu đãi với nhiều loại hình đầu tư

Theo tapchithue.com.vn

(Tài chính) Bên cạnh điểm sửa đổi căn bản là giảm mức thuế suất phổ thông từ 25% hiện hành, xuống còn 22% áp dụng từ 1/1/2014 và tiếp tục giảm xuống 20% từ 1/1/2016; mức thuế suất ưu đãi 20% cũng sẽ giảm xuống còn 17% từ 1/1/2016, đặc biệt, doanh nghiệp (DN) có quy mô nhỏ và vừa (tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng) được áp dụng thuế suất 20% từ ngày 1/7/2013, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế Thu nhập DN (TNDN) còn tạo thêm nhiều ưu đãi, điều kiện thuận lợi cho DN, nhất là trong hoạt động đầu tư phát triển.

Mở rộng diện ưu đãi với nhiều loại hình đầu tư
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Mở rộng diện ưu đãi thuế đối với đầu tư mới
 
Với nguyên tắc chuyển từ ưu đãi theo pháp nhân (DN thành lập mới từ dự án đầu tư) sang ưu đãi theo dự án đầu tư mới của DN, phạm vi ưu đãi đối với hoạt động đầu tư mới của Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN sẽ rộng hơn so với Luật hiện hành.

Cụ thể, Luật sửa đổi đã bổ sung thêm vào diện áp dụng thuế ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm đối với 3 khoản thu nhập. Đó là: Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới liên quan đến ứng dụng, ươm tạo công nghệ cao; sản xuất vật liệu nhẹ, quý hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dự án khai thác khoáng sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí: hoặc là có quy mô vốn đầu tư trên 6 nghìn tỷ đồng, giải ngân dưới 3 năm, có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10 nghìn tỷ đồng/năm sau 3 năm kể từ năm có doanh thu; hoặc là có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng thực hiện giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và sử dụng trên 3.000 lao động; Thu nhập của DN công nghệ cao, DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao.
 
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN cũng bổ sung vào diện áp dụng thuế suất ưu đãi 10%  thêm 4 khoản thu nhập, bao gồm: Thu nhập của DN từ dự án đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội; Thu nhập của nhà xuất bản, từ hoạt động báo in (kể cả quảng cáo trên báo in); Thu nhập mà DN có được từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn kinh tế - xã hội (KT-XH) khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối trừ sản xuất muối của hợp tác xã (HTX) thuộc diện miễn thuế; đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm; Thu nhập của HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp không thuộc địa bàn KT-XH khó khăn và địa bàn KT-XH đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN còn bổ sung vào diện áp dụng thuế suất ưu đãi 20%, miễn 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm đối với thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới về sản xuất thép cao cấp; sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; sản xuất thiết bị tưới tiêu; sản xuất, tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thuỷ sản; phát triển ngành nghề truyền thống; Bổ sung vào diện áp dụng thuế suất ưu đãi 20% đối với tổ chức tài chính vi mô; Bổ sung quy định ưu đãi thuế đối với khu công nghiệp (KCN) và DN thực hiện chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên.

Theo đó, thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới tại KCN (trừ KCN nằm trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi) được miễn thuế trong 2 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo.

Riêng DN thực hiện chuyển giao công nghệ cho các tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn, địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn được giảm 50% số thuế TNDN tính trên phần thu nhập từ chuyển giao công nghệ.
 
Hoạt động đầu tư mở rộng cũng được miễn, giảm thuế
 
Những quy định ưu đãi thuế TNDN đối với hoạt động đầu tư mở rộng của DN đã xuất hiện từ Luật Thuế TNDN năm 2003, đến năm 2008, khi sửa đổi Luật này, quy định ưu đãi đối với đầu tư mở rộng đã bị bãi bỏ hoàn toàn, chỉ còn ưu đãi đối với đầu tư mới. Tuy nhiên, khi thực hiện quy định này đã gặp nhiều bất cập và phản ứng của các DN về việc bị tăng thêm thủ tục hành chính và chi phí, do để được hưởng ưu đãi thì DN phải thành lập pháp nhân mới. 
 
Để khắc phục những vướng mắc phát sinh trong thực tế, quan trọng hơn là để tạo điều kiện khuyến khích đầu tư mở rộng, Luật sửa đổi đã bổ sung Luật Thuế TNDN quy định rõ căn cứ xử lý miễn thuế, giảm thuế đối với đầu tư mở rộng.

Cụ thể, nếu hoạt động đầu tư mở rộng của DN đáp ứng được một trong ba tiêu chí: (1) Nguyên giá tài sản cố định tăng thêm tối thiểu từ 20 tỷ đồng (đối với dự án đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định của Luật này)  hoặc từ 10 tỷ đồng (đối với các dự án đầu tư mở rộng thực hiện tại các địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn); (2) Tỷ trọng nguyên giá tài sản cố định tăng thêm đạt tối thiểu từ 20% so với tổng nguyên giá tài sản cố định trước khi đầu tư; (3) Công suất thiết kế tăng thêm tối thiểu từ 20% so với công suất thiết kế trước khi đầu tư), thì phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mở rộng được lựa chọn hưởng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có) hoặc được ưu đãi về thời gian miễn, giảm của đầu tư mới. Trường hợp DN đầu tư mở rộng mà không đáp ứng một trong ba tiêu chí nêu trên thì ưu đãi thuế chỉ thực hiện theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).
 
Tuy nhiên, Luật sửa đổi về thuế TNDN cũng đã quy định rõ một số trường hợp và các khoản thu nhập không thuộc diện hưởng ưu đãi thuế, đó là các trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức DN, chuyển đổi sở hữu… và các khoản thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (trừ nhà ở xã hội), thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở ngoài Việt Nam; Thu nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, tài nguyên quí hiếm khác và thu nhập từ hoạt động khai thác khoáng sản; Thu nhập từ kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. 
 
Do Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Thuế TNDN có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014 nên một vấn đề quan trọng mà DN quan tâm là việc xử lý chuyển tiếp ưu đãi thuế. Về nội dung này, Luật sửa đổi đã quy định rõ: trường hợp DN có dự án đầu tư mà tính đến hết kỳ tính thuế năm 2013 còn đang trong thời gian hưởng ưu đãi thuế TNDN thì tiếp tục được hưởng cho thời gian còn lại, hoặc được lựa chọn ưu đãi mới theo quy định của Luật này nếu đáp ứng các điều kiện ưu đãi cho thời gian còn lại.

Tính đến hết kỳ tính thuế năm 2015, trường hợp DN có dự án đầu tư đang áp dụng thuế suất ưu đãi 20% theo quy định tại điểm 3, Khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi thì, kể từ ngày 1/1/2016 được chuyển sang áp dụng thuế suất 17% cho thời gian còn lại.
 
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN có hiệu lực thi hành từ 1/1/2014 bổ sung thêm 7 khoản thu nhập vào diện được miễn thuế, bao gồm: Thu nhập từ sản xuất muối của HTX; Thu nhập của HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện ở địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn và địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; Thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của DN ở địa bàn KT-XH đặc biệt khó khăn; Thu nhập từ hoạt động đánh bắt hải sản; Thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) của DN được cấp chứng chỉ; Thu nhập từ hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, thu nhập từ hoạt động tín dụng cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác của ngân hàng chính sách xã hội, thu nhập của các quỹ tài chính nhà nước và quỹ khác của Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thu nhập của tổ chức Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam; Thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác để lại đầu tư phát triển; phần thu nhập hình thành tài sản không chia của HTX được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật HTX.