Quy định mới về quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương

PV (Tổng hợp)

Ngày 8/02/2017, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 11/2017/TT-BTC quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác với nhiều điểm mới quan trọng.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Theo số liệu tổng hợp của Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH), đến nay, các tỉnh, thành phố đã thực hiện ủy thác vốn ngân sách địa phương qua NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ với tổng dư nợ là 6.500 tỷ đồng.

Bộ Tài chính đánh giá, nhằm quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác ở địa phương được thực hiện thống nhất và hiệu quả, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 11/2017/TT-BTC với  nhiều điểm mới quan trọng như sau:

Về nguồn vốn

Thông tư số 11 quy định chuyển nguồn vốn còn lại tại thời điểm giải thể của Quỹ giải quyết việc làm địa phương cùng với nguồn vốn ngân sách địa phương trích hàng năm ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác (trước đây quản lý và sử dụng để cho vay giải quyết việc làm theo Thông tư số 73/2008/TT-BTC ngày 01/8/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng Quỹ giải quyết việc làm địa phương và kinh phí quản lý Quỹ quốc gia về việc làm), nguồn tiền lãi thu được từ cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác được trích hàng năm để bổ sung vào nguồn vốn ủy thác.

Về quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn      

Khác với Thông tư số 73/2008/TT-BTC, UBND cấp tỉnh ban hành Quy chế quản lý và điều hành Quỹ giải quyết việc làm của địa phương, Thông tư số 11 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh: UBND câp tỉnh ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Về đối tượng cho vay

Thông tư số 11 quy định rõ đối tượng cho vay đối với các đối tương chính sách khác bao gồm cả đối tượng chính sách khác theo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP và một số đối tượng chính sách khác tại địa phương (ngoài Nghị định số 78/2002/NĐ-CP) do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định (nếu có) để phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương.

Về quản lý và sử dụng tiền lãi cho vay

NHCSXH quản lý và hạch toán số tiền lãi thu được từ hoạt động cho vay bằng nguồn vốn ngân sách địa phương vào thu nhập của Ngân hàng Chính sách xã hội và quản lý, sử dụng theo nguyên tắc thứ tự ưu tiên: đầu tiên là trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chung; tiếp đến trích phí quản lý nguồn vốn ủy thác cho NHCSXH, phí chi cho công tác chỉ đạo, quản lý, tổng hợp, kiểm tra, giám sát, khen thưởng của các cơ quan, đơn vị liên quan. Phần còn lại (nếu có) được bổ sung vào nguồn vốn cho vay.

Bổ sung quy định đối với trường hợp lãi thu được sau khi trích quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chung không đủ trích phí quản lý cho NHCSXH theo quy định, ngân sách địa phương cấp bù phần còn thiếu cho NHCSXH nơi nhận ủy thác.

Về xử lý nợ bị rủi ro

Ngoài việc quy định cơ chế xử lý các khoản nợ bị rủi ro, thẩm quyền xem xét xử lý nợ bị rủi ro, nguồn vốn để xử lý nợ bị rủi ro. Thông tư số 11 quy định bổ sung trường hợp quỹ dự phòng rủi ro tín dụng không đủ bù dắp, tùy theo tình hình thực tế khoản vay bị rủi ro thuộc nguồn vốn ngân sách cấptỉnh, cấp huyện; ƯBND cấp tỉnh, cấp huyện bổ sung ngân sách địa phương để xử lý, hoặc giảm trực tiếp vào nguồn vốn ủy thác của ngân sách địa phương chuyển qua NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện.

Đặc biệt, để tăng cường nguồn vốn cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Thông tư quy định trường hợp Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng sau khi được sử dụng để xử lý xóa nợ bị rủi ro lớn hơn số dư Quỹ dự phòng rủi ro tối đa, được bổ sung vào nguồn vốn ủy thác để cho vay theo quy định.

Đối với các địa phương đã ban hành quy định việc quản lý, sử dụng vốn ủy thác của ngân sách địa phương qua NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác được tiếp tục thực hiện và rà soát lại nội dung theo quy định tại Thông tư này để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.