Bộ Tài chính gỡ vướng về đấu giá quyền sử dụng đất

PV. (Tổng hợp)

Bộ Tài chính giải đáp kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Phước về vướng mắc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước trong việc xác định giá đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: "Hiện tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước đang gặp khó khăn khi thực hiện quy định về việc xác định giá đất đối với trường hợp thửa đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất mà chỉ có một người tham gia đấu giá.

Cụ thể, theo quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 3 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, giá đất được xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất. Trong khi đó, điểm b, khoản 3, Điều 3 Nghị định thì xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất theo phương pháp so sánh, chiết trừ, thặng dư, thu nhập.

Thực tế thu tiền sử dụng đất theo cách tính tại điểm c, khoản 3, Điều 3 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP sẽ gây thất thu ngân sách nhà nước; còn nếu tính theo mức giá khởi điểm đã phê duyệt thì không phù hợp với hướng dẫn của Bộ.

Đề nghị điều chỉnh quy định theo hướng việc xác định giá thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp thửa đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá thì Nhà nước thực hiện giao đất, cho thuê đất mà không phải đấu giá quyền sử dụng đất theo mức giá khởi điểm đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt."

Bộ Tài chính có giải đáp cụ thể về vấn đề này tại Công văn số 1681/BTC-QLCS ngày 10/02/2017 như sau:

Tại khoản 3 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 quy định:

“ Điều 118. Các trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất và các trường hợp không đấu giá quyền sử dụng đất

3. Trường hợp đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này mà không có người tham gia hoặc trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc đấu giá ít nhất là 02 lần nhưng không thành thì Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất mà không phải đấu giá quyền sử dụng đất.”

Tại điểm c khoản 3 Điều 3 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định:

Điều 3. Căn cứ tính tiền sử dụng đất

3. Giá đất tính thu tiền sử dụng đất:

c) Giá đất cụ thể được xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất áp dụng đối với trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc Trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại áp dụng để xác định tiền sử dụng đất trong các trường hợp:

- Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;”

Tại điểm 1 khoản 1 Điều 2 Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ quy định:

“Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất

1. Sửa đổi, bổ sung Khoản 1 và bổ sung Khoản 4 vào Điều 4 như sau:

“1. Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất phải nộp là số tiền trúng đấu giá. Việc xác định giá khởi điểm cụ thể như sau:

b) Giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất mà diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất đấu giá có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại là giá đất cụ thể do cơ quan tài chính xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất”.

Tại khoản 2 Điều 3 Thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính quy định:

“Điều 3. Xác định tiền sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất

2. Hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất do Sở Tài chính chủ trì xác định theo từng khu vực, tuyến đường, vị trí tương ứng với từng mục đích sử dụng đất phù hợp với thị trường và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành hàng năm sau khi xin ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Trường hợp tại một số vị trí đất thực hiện dự án trong cùng một khu vực, tuyến đường có hệ số sử dụng đất (mật độ xây dựng, chiều cao của công trình) khác với mức bình quân chung của khu vực, tuyến đường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất cao hơn hoặc thấp hơn mức bình quân chung để tính thu tiền sử dụng đất đối với các trường hợp này và quy định cụ thể trong Quyết định ban hành hệ số điều chỉnh giá đất của địa phương.”

Căn cứ quy định trên, hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất do Sở Tài chính chủ trì xác định theo từng khu vực, tuyến đường, vị trí tương ứng với từng mục đích sử dụng đất phù hợp với thị trường và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành hàng năm sau khi xin ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Trường hợp tại một số vị trí đất thực hiện dự án trong cùng một khu vực, tuyến đường có hệ số sử dụng đất (mật độ xây dựng, chiều cao của công trình) khác với mức bình quân chung của khu vực, tuyến đường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất cao hơn hoặc thấp hơn mức bình quân chung để tính thu tiền sử dụng đất đối với các trường hợp này và quy định cụ thể trong Quyết định ban hành hệ số điều chỉnh giá đất của địa phương.

Đồng thời, giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất trong trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất đấu giá có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại là giá đất cụ thể xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất.

Trường hợp khi đưa ra đấu giá đấu giá quyền sử dụng đất mà không có người tham gia hoặc chỉ có một người tham gia hoặc đấu giá ít nhất là 2 lần nhưng không thành thì Nhà nước thực hiện việc giao đất không phải đấu giá.

Khi đó việc xác định giá đất để tính thu tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại được áp dụng theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất.

Như vậy, việc xác định giá khởi điểm khi đấu giá quyền sử dụng đất và xác định giá đất khi giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá đối với trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại đều được áp dụng theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất và phương pháp này đã được quy định cụ thể đảm bảo phù hợp, công khai, minh bạch và sát với giá thị trường.