Hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp do tái đầu tư?

PV.

(Tài chính) Trước phản ảnh từ phía doanh nghiệp và một số Cục Thuế tỉnh, thành phố về việc hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) do tái đầu tư, ngày 10/04/2013, Tổng cục Thuế đã có văn bản số 1162/TCT-CS hướng dẫn các đơn vị về vấn đề này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Theo đó, Văn bản số 1162/TCT-CS do Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Cao Anh Tuấn ký khẳng định, tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51, Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/07/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định:

“1. Nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận và các khoản thu hợp pháp khác từ hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư vào dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo Luật Đầu tư nước ngoài được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số thuế TNDN đã nộp của sổ lợi nhuận tái đầu tư (trừ những trường hợp được quy định tại Luật Dầu khí) nếu đáp ứng các điều kiện sau:

a) Tái đầu tư vào những dự án được hưởng các ưu đãi về thuế TNDN nêu tại Điều 46 của Nghị định này;

b) Vốn tái đầu tư được sử dụng từ 3 năm trở lên;

c) Đã góp đủ vốn pháp định, vốn để thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh ghi trong Giấy phép đầu tư.

2. Mức hoàn thuế TNDN đối với số lợi nhuận tái đầu tư tại Việt Nam được quy định như sau:

a) 100% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 10%;

b) 75% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 15%;

c) 50% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế TNDN 20%”.

Bên cạnh đó, tại Điều 50, Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ cũng quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN, cụ thể:

“Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo và áp dụng cho kỳ tính thuế từ năm 2004.

1. Bãi bỏ quy định về hoàn thuế TNDN đã nộp cho số thu nhập tái đầu tư, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài và các quy định ưu đãi về thuế suất, về miễn, giảm thuế TNDN quy định tại Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.

Ngoài ra, tại Điểm 2.a và Điểm 2.b, Phần II, Thông tư số 26/2004/TT-BTC ngày 31/3/2002 của Bộ Tài chính quy định:

2. Về việc hoàn thuế TNDN do tái đầu tư:

a) Từ ngày 1/1/2004, nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận thu được và các khoản thu hợp pháp khác từ hoạt động đầu tư tại Việt Nam để tái đầu tư vào dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo qui định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ không được hoàn thuế TNDN đối với khoản lợi nhuận tái đầu tư.

b) Đối với những dự án đã được cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cấp giấy phép tái đầu tư hoặc có văn bản trước ngày 1/1/2004, chấp thuận việc sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư để tăng vốn đầu tư mở rộng dự án đang đầu tư, hoặc tái đầu tư vào dự án mới, doanh nghiệp dùng khoản lợi nhuận thu được trước ngày 1/1/2004 để tái đầu tư, doanh nghiệp có đầy đủ hồ sơ theo quy định tại Thông tư số 13/2001/TT-BTC ngày 8/3/2001 của Bộ Tài chính và gửi về Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) thì sẽ được xem xét hoàn thuế TNDN tái đầu tư”.

Căn cứ ý kiến đề nghị tại công văn số 5928/UBND-DA ngày 21/9/2005 và công văn số 3458/UBND-ĐT ngày 12/7/2011 của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về việc cho phép Công ty cổ phần SCAVI được hoàn thuế TNDN do sử dụng lợi nhuận các năm 2000, 2001 để tái đầu tư và giải trình tại công văn số 059/SC/HCQT/2012 ngày 22/10/2012 và hồ sơ bổ sung kèm theo công văn số 01/SC/HCTQ/2013 ngày 02/01/2013 của Công ty cổ phần SCAVI, Tổng cục Thuế đã yêu cầu Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh kiểm tra, nếu trong trường hợp đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật (trừ điều kiện được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép tái đầu tư hoặc có văn bản trước ngày 1/1/2004) thì hướng dẫn Công ty cổ phần SCAVI thực hiện thủ tục, hồ sơ hoàn thuế theo hướng dẫn tại Điểm 6.c, Mục I, Phần thứ hai, Thông tư số 13/2001/TT-BTC ngày 8/3/2001 của Bộ Tài chính.

Tổng cục Thuế cũng cho biết: Công văn này thay thế các công văn số 1573 TCT-ĐTNN ngày 26/5/2005, Công văn số 1946 TCT/ĐTNN ngày 21/6/2005 và Công văn số 4571/TCT-CS ngày 15/12/2011.