Miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và lệ phí chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp?

Hoa Sơn

Bộ Tài chính vừa có công văn gửi Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp giải đáp kiến nghị của cử tri về việc xem xét miễn giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2025 và giảm lệ phí chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XIV, Bộ Tài chính đã nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Đồng Tháp do Ban Dân nguyện chuyển tới tại Công văn số 223/BDN ngày 15/6/2020 và Văn phòng Chính phủ chuyển tới tại Công văn số 5301/VPCP-QHĐP ngày 01/07/2020 về việc xem xét miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2025 để giảm bớt khó khăn cho người dân. Đồng thời, cử tri Đồng Tháp cũng kiến nghị xem xét giảm lệ phí chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở do hiện nay, mức thu lệ phí là quá cao so với thu nhập của người dân.

Về vấn đề này, tại Công văn số 9098/BTC-CST gửi Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp, Bộ Tài chính cho biết, chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hiện hành đang được thực hiện theo quy định tại Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Đối tượng chịu thuế bao gồm đất ở (bao gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị); Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; Đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.

Thuế suất thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với đất ở là 0,03% đối với phần diện tích trong hạn mức, 0,07% đối với phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức, 0,15% đối với phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức; Đối với đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng thuế suất là 0,03%. Giá của 1m2 đất tính thuế là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và được ổn định theo chu kỳ 5 năm.

Qua đánh giá cho thấy, mức thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hiện hành là rất thấp, với nguồn thu trong phạm vi cả nước chỉ khoảng 1.500 tỷ đồng/năm, chiếm 0,036% GDP. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, số thu thuế đối với việc sử dụng đất của các nước chiếm khoảng 2-4% GDP, Nhật Bản lên đến 8%. Mức thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thấp dẫn đến mục tiêu của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp chưa đạt được, nhất là mục tiêu góp phần điều tiết cao đối với người có quyền sử dụng thửa đất hoặc có quyền sử dụng với nhiều thửa đất, thúc đẩy tổ chức, cá nhân trong xã hội sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả.

Ngoài ra, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định các trường hợp miễn và giảm 50% số thuế phải nộp, trong đó có đất trong hạn mức của hộ nghèo, đất trong hạn mức tại địa bàn điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Luật số 106/2016/QH13 ngày 6/4/2019 của Quốc hội về quy định miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân có số thuế phải nộp hàng năm từ năm mươi nghìn đồng trở xuống.

Về chính sách phí, lệ phí liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, Bộ Tài chính cho biết, tại Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật phí và lệ phí quy định 02 khoản thu liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở: Phí thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn liền với đất. 02 khoản này thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Căn cứ quy định trên, pháp luật hiện hành chỉ có 02 khoản thu phí và lệ phí liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn liền với đất. Mức thu phí thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn liền với đất do HĐND cấp tỉnh quyết định; không thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính.