Sẽ phải nộp thuế trước khi thông quan hàng

Thu Trang

Tại tờ trình UBTVQH và Chính phủ về Dự thảo Luật Sửa đổi Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đã trình sửa thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá XNK theo hướng quy định rõ người nộp thuế phải nộp thuế trước thời điểm thông quan hoặc giải phóng hàng.

Trường hợp có bảo lãnh của ngân hàng thì được thông quan hoặc giải phóng hàng trước khi nộp thuế nhưng sẽ tính lãi chậm nộp để hạn chế tình trạng lợi dụng ân hạn nộp thuế, trây ỳ nợ thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế...

Khoản 3, Điều 42 Luật Quản lý thuế hiện hành quy định về thời gian ân hạn nộp thuế XNK đã giúp DN chủ động và linh hoạt sử dụng các luồng tiền để nộp thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, do cơ chế thông thoáng trong việc thành lập DN và DN có thể không thường xuyên thực hiện XNK, nên có tình trạng lợi dụng chính sách để trây ỳ nợ thuế, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể. Quy định này dẫn đến những bất lợi cho hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng NK.

Tại tờ trình UBTVQH, Chính phủ, Bộ Tài chính đã trình sửa thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá XNK theo hướng quy định rõ người nộp thuế phải nộp thuế trước thời điểm thông quan hoặc giải phóng hàng. Trường hợp có bảo lãnh của ngân hàng thì được thông quan hoặc giải phóng hàng trước khi nộp thuế nhưng sẽ tính lãi chậm nộp để hạn chế tình trạng lợi dụng ân hạn nộp thuế, trây ỳ nợ thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, tại dự thảo Nghị định có quy định thời hạn bảo lãnh đối với: “a, hàng hoá NK là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hoá XK, hàng hoá kinh doanh theo phương thức TN-TX không thuộc đối tượng áp dụng chế độ bảo thuế, thời hạn bảo lãnh tối đa là 1 năm, tính tròn là 365 ngày kể từ ngày thông quan hoặc giải phóng hàng; b, hàng hoá XNK của các trường hợp khác, thời hạn bảo lãnh tối đa là 30 ngày kể từ ngày thông quan hoặc giải phóng hàng”.

Theo Bộ Tài chính, tại tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ về giải pháp xử lý đối với hàng hoá TN-TX cũng đã thống nhất trình theo hướng sửa Luật nêu trên. Và tại báo cáo thẩm tra của Thường trực UBKTNSQH cũng đã nhất trí với hướng sửa đổi này.

Tuy nhiên, tại cuộc họp về quản lý hàng hoá TN-TX với Bộ Công Thương ngày 13-3-2012, Bộ Công Thương lại cho rằng, nếu sửa thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá XNK như trên sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN, đặc biệt là sản xuất XK (Luật hiện hành đang được ân hạn 275 ngày nếu là DN chấp hành pháp luật tốt), TN-TX (Luật hiện hành đang được ân hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn TN-TX nếu là DN chấp hành pháp luật tốt) và đề nghị cho tiếp tục ân hạn thuế.

Trước ý kiến này, Tổng cục Hải quan đã cho rà soát lại quá trình soạn thảo lấy ý kiến các bộ, ngành về vấn đề này. Qua đó cho thấy, Bộ Công Thương tham gia rất chung chung về quy định thời hạn nộp thuế hàng kinh doanh theo phương thức TN-TX là 30 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai nếu là DN chấp hành tốt pháp luật về thuế.

Tổng cục Hải quan cho biết, sau khi lấy ý kiến các bộ, ngành trên tinh thần bảo đảm chống thất thu, giảm nợ đọng, khắc phục các vướng mắc tồn tại hiện hành của việc cho ân hạn thuế (do cơ chế thông thoáng trong việc thành lập DN và DN có thể không thường xuyên thực hiện XNK, nên có tình trạng lợi dụng chính sách để trây ỳ nợ thuế, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể. Đồng thời quy định này dẫn đến sự bất lợi cho hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng NK); tham khảo kinh nghiệm quốc tế (không cho nợ thuế đối với hàng hoá NK, nếu nợ phải có bảo lãnh hoặc phải có tài khoản bảo đảm do cơ quan Hải quan quản lý) và cũng theo xu hướng cải cách thủ tục hải quan (chuyển hàng hoá TN-TX sang chế độ bảo thuế như hệ thống thông quan điện tử của Nhật Bản- NACCS), vì vậy mà Tổng cục Hải quan đã có sửa đổi Điều 42 Luật Quản lý thuế theo hướng nêu trên.

Đồng thời, ý kiến các thành viên Chính phủ theo báo cáo số 607/BC-VPCP ngày 3-2-2012 thì 24/25 thành viên nhất trí với hướng sửa này, trong đó Bộ Công Thương cũng nhất trí.

Theo Tổng cục Hải quan, việc sửa đổi theo hướng trên là chung cho các loại hình, bao gồm cả nguyên liệu sản xuất, TN-TX và đã tính đến xu hướng cải cách thủ tục hành chính (chuyển hàng hoá TN-TX sang chế độ bảo thuế như hệ thống thông quan điện tử của Nhật Bản- NACCS)  và sẽ khắc phục được căn bản các bất cập tồn tại trong thời gian qua, đặc biệt là tình trạng trây ỳ nợ thuế, góp phần giảm bớt chi phí hành chính thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng có thể sẽ ảnh hưởng đến giá thành của các DN hoạt động sản xuất XK, TN-TX do phải trả phí bảo lãnh từ 0,06%/tháng đến 0,2%/tháng. Tuy nhiên, nếu không sửa theo hướng này, tình hình sẽ xảy ra ngược lại.

Vì vậy, Tổng cục Hải quan đã soạn thảo 2 phương án xử lý về sửa đổi Khoản 3 Điều 42- thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá XNK.

Phương án 1: Thời hạn bảo lãnh được quy định cụ thể: Hàng hoá NK là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hoá XK, hàng hoá kinh doanh theo phương thức TN-TX không thuộc đối tượng áp dụng chế độ bảo thuế, thời hạn bảo lãnh tối đa là 1 năm (tính tròn là 365 ngày) kể từ ngày thông quan hoặc giải phóng hàng;

Hàng hoá XNK của các trường hợp khác, thời hạn bảo lãnh tối đa là 30 ngày kể từ ngày thông quan hoặc giải phóng hàng.

Phương án này đã được các thành viên Chính phủ, thường trực UB nhất trí.

Phương án 2: Để được áp dụng thời hạn nộp thuế, người nộp thuế phải đáp ứng đủ các điều kiện: Có hoạt động XNK trong thời gian ít nhất là 365 ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận, trốn thuế; không nợ tiền thuế quá hạn, tiền phạt vi phạm hành chính, tiền phạt lãi chậm nộp tại thời điểm đăng ký tờ khai; Thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.

Thời hạn bảo lãnh tối đa là 275 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hoá NK là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hoá XK; 30 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với các trường hợp khác.