Củng cố động lực tăng trưởng truyền thống, phát huy, khai thác các động lực tăng trưởng mới

Bảo Thương

Tiếp tục chương trình Diễn đàn Kinh tế - Xã hội 2023, chiều ngày 19/9, tại Phiên toàn thể với chủ đề “Tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển bền vững”, TS. Cấn Văn Lực đã kiến nghị một số nội dung nhằm củng cố động lực tăng trưởng truyền thống, phát huy, khai thác các động lực tăng trưởng mới.

TS. Cấn Văn Lực phát biểu tại Diễn đàn.
TS. Cấn Văn Lực phát biểu tại Diễn đàn.

Đánh giá về nền kinh tế nước ta từ năm 2020 đến nay, TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho biết, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế có khả năng chống chịu ở mức “trung bình - khá”, là một trong số ít các nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế dương năm 2020-2021, phục hồi ấn tượng trong năm 2022, tiếp tục là điểm đến đầu tư, du lịch, giao thương hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta cũng phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức và hạn chế như: rủi ro và thách thức từ bối cảnh quốc tế vẫn hiện hữu và có thể kéo dài; hoạt động thương mại quốc tế còn khó khăn, còn giảm dù mức giảm đã chậm lại; hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều thách thức nhưng đã khá dần lên; tín dụng tăng trưởng thấp, nợ xấu tăng cao do khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế còn yếu; Thu ngân sách nhà nước sau 2 năm (2021-2022) tăng khá bắt đầu suy giảm từ đầu năm 2023 do ngoại thương giảm, doanh nghiệp khó khăn và các chính sách giãn hoãn, giảm thuế, phí được áp dụng nhiều hơn trong 6 tháng cuối năm 2023.

Theo chuyên gia này, tăng trưởng GDP năm 2023 dự báo theo kịch bản cơ sở là 5,2-5,5%. Với kịch bản tiêu cực là kinh tế thế giới suy thoái nặng nề hơn, tận dụng được ít các cơ hội từ các động lực tăng trưởng mới, GDP dự báo là 4,4-4,5%. Tuy nhiên, với kịch bản tích cực là kinh tế thế giới sớm phục hồi, và khai thác được các động lực tăng trưởng mới (như chuyển đổi số, đẩy mạnh liên kết vùng với việc thúc đẩy 2 động lực chính là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), GDP có thể đạt 5,5-6%.

Đối với năm 2024 và 2025, theo kịch bản cơ sở, dự báo tình hình kinh tế thế giới từng bước phục hồi, lạm phát được kiếm chế và dần về mức dưới 3% năm 2025, khi đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự báo đạt khoảng 6% năm 2024 và 6,5% năm 2025.

Chia sẻ tại Diễn đàn về những động lực tăng trưởng, TS. Cấn Văn Lực cho biết, từ nay đến năm 2025 và hướng tới năm 2030, một số động lực chính dự báo sẽ tiếp tục đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường mới nổi phát triển nhanh và bền vững hơn; với sự cộng hưởng của cả những động lực truyền thống và động lực mới.

Về động lực truyền thống, theo ông Cấn Văn Lực là có 3 động lực đến từ phía cung. Cụ thể: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là một trong những trụ cột của nền kinh tế, tiếp tục tăng trưởng ổn định trong giai đoạn đến năm 2025 và đến năm 2030 và đóng góp khoảng 12% GDP hàng năm; khu vực công nghiệp được dự báo sẽ duy trì đóng góp tích cực (khoảng 3 - 3,5 điểm %) vào tăng trưởng GDP hàng năm theo kịch bản Việt Nam tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm đến năm 2030; khu vực dịch vụ sẽ ngày càng phát triển với chất lượng và hiệu quả cao hơn, đóng góp khoảng 45% GDP hàng năm.

Từ phía cầu cũng có 3 động lực đó là: đầu tư; xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ; tiêu dùng.

Các đại biểu tham dự Phiên toàn thể của Diễn đàn. 
Các đại biểu tham dự Phiên toàn thể của Diễn đàn. 

Đặc biệt nhấn mạnh đến những động lực tăng trưởng mới, TS. Cấn Văn Lực thông tin, từ năm 2020 đến nay, nhu cầu và hành vi đầu tư, tiêu dùng đã thay đổi theo hướng tiết kiệm và bảo vệ sức khỏe nhiều hơn, nhiều mô hình kinh doanh, xu hướng công nghệ mới phát triển nhanh hơn so với dự đoán. Từ đó, những xu thế vận động mới này có thể trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong trung - dài hạn. Cụ thể:

Một là, xu hướng phát triển mạnh mẽ của kinh tế số: Với việc hoàn thiện hành lang pháp lý; khắc phục các hạn chế về hạ tầng, nguồn nhân lực số, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, an ninh mạng và bảo mật thông tin, dữ liệu; dự báo kinh tế số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ về cả lượng và chất đến năm 2025 và năm 2030, góp phần tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng, tăng năng suất lao động, tính hiệu quả và bền vững. Dự báo, kinh tế số sẽ đóng góp khoảng 25-30% GDP và đóng góp 0,63 - 1,35 điểm % vào mức tăng trưởng GDP hàng năm.

Hai là, nâng cao năng suất lao động: Năng suất lao động Việt Nam dự báo tăng 4,5 - 5% giai đoạn 2021-2025 (mục tiêu là 6,5%) và tăng 6 - 6,5% giai đoạn 2026 - 2030 (mục tiêu là 6,8 - 7%). 

Ba là động lực từ khu vực kinh tế tư nhân: nếu có đột phá về cơ chế, chính sách thì khu vực này có thể đóng góp khoảng 45% GDP đến năm 2025 và 50-55% GDP đến năm 2030.

Bốn là, động lực từ hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế: Đây là động lực đột phá nhưng cũng khó thực hiện và có thể cần nhiều thời gian nhất, vì động lực này giúp kiến tạo cơ chế mới, cách thức vận hành mới, tạo ra môi trường kinh doanh – đầu tư hấp dẫn, minh bạch. 

Năm là, động lực từ lợi ích thiết thực của kinh tế xanh và chủ động thích ứng biến đổi khí hậu: Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đặt mục tiêu đưa nền kinh tế xanh lên quy mô 300 tỷ USD trong GDP vào năm 2050 (xấp xỉ 10% GDP) trong đó, tỷ trọng đóng góp của kinh tế xanh đến năm 2025 là 1,8-2% GDP và đến năm 2030 là 3,3-3,5% GDP. Tức là, mức đóng góp của kinh tế xanh vào GDP tăng bình quân khoảng 15%/năm trong giai đoạn 2021-2050.

Sáu là, động lực từ quyết tâm nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu: Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (2022), việc nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu sẽ giúp tăng thêm 2-3% GDP của Việt Nam mỗi năm.

 

Theo ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên Trường chính sách công và quản lý Fulbright Việt Nam, ba động lực tăng trưởng hiện nay của nền kinh tế Việt Nam là tiêu dùng nội địa, đầu tư và xuất khẩu đều không theo hướng chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn. Nếu tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng với ba động lực truyền thông này mà không có chính sách mang tính khuyến khích để thay đổi hành vi trong tiêu dùng, đầu tư và sản xuất kinh doanh thì chắc chắn các mục tiêu về chuyển đổi xanh sẽ không đạt được.

Với việc chỉ ra cụ thể những động lực cho tăng trưởng, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, cần thực hiện triển khai nghiêm túc, đồng bộ các giải pháp để củng cố những động lực truyền thống. Đồng thời, vị chuyên gia này cũng kiến nghị một số nội dung nhằm khai thác hiệu quả các động lực mới.

Đó là đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế, nhất là các Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Đầu thầu. Quan tâm xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bao gồm cả cơ chế thử nghiệm (sandbox). Thúc đẩy tăng trưởng xanh; chủ động thích ứng, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Sớm xây dựng Đề án nâng cao năng suất lao động quốc gia, sớm thành lập Ủy ban Năng suất quốc gia như một số quốc gia đã làm. Thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn, bền vững hơn. Theo đó, cần có đánh giá, rà soát việc thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân để có đề xuất cập nhật, điều chỉnh phù hợp bối cảnh mới hiện nay.

Xây dựng đề án, chiến lược, giải pháp cụ thể nhằm tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam. Song song với đó, chú trọng xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở thông tin, dữ liệu trong mỗi lĩnh vực, ngành nghề, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp; vì đây vừa là tài sản quý giá, vừa là cơ sở ra quyết định, xây dựng cơ chế, chính sách, tổ chức và giám sát thực hiện công khai, minh bạch và hiệu quả hơn.

 

Phát biểu tại Phiên toàn thể, TS. Vũ Tiến Lộc cho rằng, trong 30 năm qua, việc phát triển doanh nghiệp và nâng cao năng suất lao động đã đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo và trở thành nước có thu nhập trung bình, hiện tại chúng ta vẫn đang tập trung vào 2 yếu tố này, đây là động lực tăng trưởng chính cho sự phát triển của nước ta. Nâng cấp doanh nghiệp và nâng cao năng suất lao động chính là mệnh lệnh cho việc đổi mới.