Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam

TS. Mai Thị Huyền, TS. Phạm Thị Dinh, ThS. Phạm Thị Thanh Lê Trường Đại học Nông - Lâm Bắc Giang

Khoa học công nghệ ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay, việc chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa gắn kết được giữa hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ của Nhà nước với tư nhân… Để sớm hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô hớn theo hướng hiện đại, có năng suất, chất lượng, hiệu quả… thì cần đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Đặt vấn đề

Là một quốc gia đang phát triển, nông nghiệp luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, Việt Nam luôn xác định, mục tiêu của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong đó, phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể.

Nhận thức rõ vấn đề này, những năm qua, Việt Nam đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách phát triển KHCN, đưa KHCN thực sự là “quốc sách hàng đầu” trong quá trình phát triển KTXH của Đất nước. Trong đó, các chủ trương, chính sách đẩy nhanh hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất nông nghiệp được quan tâm đặc biệt. Tại Đại hội XIII (năm 2021), trong bối cảnh tình hình mới, Đảng ta khẳng định chủ trương: “Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đối với nông nghiệp, Đại hội đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp… phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm…”. Những quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vừa có ý nghĩa định hướng, vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp ở nước ta.

Thực trạng thực thi các chính sách ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp

Đã có nhiều kết quả nghiên cứu và thực tiễn chứng minh, việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất đã đóng góp rất lớn đến sự phát triển của ngành Nông nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, sau hơn 10 năm kể từ khi Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban hành, ngành Nông nghiệp đã có sự tăng trưởng vượt bậc, nông sản của Việt Nam đã có mặt ở thị trường của 180 quốc gia trên thế giới, ngành nông lâm thủy sản trong giai đoạn 2013 - 2022 tăng trưởng bền vững, ổn định theo chiều hướng tích cực; tốc độ tăng GDP toàn Ngành đạt bình quân 2,65%/năm mặc dù luôn phải đối mặt với những thách thức bởi thiên tai, dịch bệnh.

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất giống cây vật nuôi với giá trị gia tăng đạt 38%.

KHCN đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong giai đoạn 2016 - 2022, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tăng nhanh, đạt 238,81 tỷ USD, trung bình đạt hơn 39,8 tỷ USD/năm, riêng năm 2022 đạt 48,6 tỷ USD.

Việc ứng dụng KHCN được thực hiện toàn diện, đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực, các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp và đạt được một số kết quả cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong khâu chuẩn bị đất, phân bón và ao chuồng chăn nuôi đã có nhiều công trình nghiên cứu được ứng dụng vào cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu của đất; các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh ứng dụng công nghệ sản xuất mới được sử dụng rất phổ biến đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng đất trồng. Tiêu biểu như nghiên cứu, ứng dụng than sinh học làm từ trấu và vỏ cà phê, sản xuất bằng phương pháp khí hóa nhằm nâng cao chất lượng đất và đánh giá hiệu quả trên các loại cây trồng của Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh (2016). Nghiên cứu, sử dụng chế phẩm vi sinh cải tạo đất của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã được áp dụng vào thực tiễn và sản xuất ở quy mô công nghiệp nhằm cải thiện độ phì nhiêu của đất. Ứng dụng công nghệ nano để sản xuất một số loại phân bón thế hệ mới; sản xuất các chế phẩm ứng dụng làm thuốc bảo vệ thực vật; chế tạo máy phun hiệu năng cao…

Việc áp dụng cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp (SXNN) đã giúp cho nông dân giảm chi phí đầu vào, tăng chất lượng sản phẩm, góp phần tăng lợi nhuận khoảng 20 – 30% so với không áp dụng cơ giới hóa. Các nghiên cứu, thiết kế, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (TBKT) hiện đại trong xây dựng ao chuồng cho các loại vật nuôi được thực hiện ngày càng phổ biến, đặc biệt, đã làm chủ công tác nghiên cứu, sản xuất và làm chủ quy trình sử dụng các loại chế phẩm sinh học trong xử lý ao chuồng, nguồn nước và chất thải trong chăn nuôi vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa góp phần bảo vệ môi trường.

Thứ hai, các thành tựu KHCN đã được ứng dụng phổ biến trong chọn tạo được nhiều cây, con giống mới có chất lượng cao, khả năng phòng trừ dịch bệnh, thích ứng tốt với các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Trong giai đoạn (2013 – 2022), đã có 529 giống mới (trong đó, 393 giống cây trồng, 12 giống thủy sản; 82 giống cây lâm nghiệp và 42 giống vật nuôi); 101 tiến bộ kỹ thuật (TBKT) và 85 bằng phát minh sáng chế được công nhận và ứng dụng vào thực tiễn. Nhiều cây, con giống được lai tạo, chọn lựa bằng công nghệ hiện đại, phương pháp, quy trình kỹ thuật mới đã đưa vào sản xuất đại trà trên quy mô lớn, góp phần làm tăng năng suất và chất lượng của nông phẩm Việt Nam.

Có nhiều loại giống cây trồng khác như: ngô, rau, củ, nấm, hoa… đều ứng dụng phổ biến KHCN trong chọn tạo, đem lại nhiều giống mới ưu việt đưa vào sản xuất. Nhiều giống cây công nghiệp, cây lâm nghiệp mới được chọn tạo và đưa vào sản xuất đại trà trên cơ sở ứng dụng các thành tựu KHCN hiện đại, có gần 65% diện tích canh tác chè toàn quốc sử dụng các giống do Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu, chọn tạo và hàng trăm giống cây lâm nghiệp mới được công nhận, như: keo lai, keo tai tượng, keo lá tràm, keo lá liềm, sa nhân tím, đàn hương, dẻ ván ăn quả… Với ngành chăn nuôi, đã làm chủ quy trình sản xuất tinh đông lạnh gia súc (trâu, bò, dê, lợn), đồng thời, nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất phôi, cấy phôi tươi, phôi đông lạnh ở một số loại gia súc (bò, lợn nái sinh sản) và một số loại gà bản địa. Trong lai tạo, chọn giống thủy sản với các tiêu chí chính là tăng trưởng và tỷ lệ sống cao, giai đoạn 2016 – 2022 có 12 giống mới, 65 TBKT và 20 bằng sáng chế được công nhận và chuyển giao vào sản xuất. Việc ứng dụng KHCN mới đã nâng tỷ lệ sống trong giai đoạn ương nuôi cá tra đạt gần 50%, qua đó, từng bước đáp ứng đủ số lượng, chất lượng con giống, với khả năng tăng trưởng nhanh (tăng trên 20%)… Chất lượng con giống tốt đã góp phần nâng cao sản lượng nuôi trồng thủy sản của cả nước, năm 2019 đạt 4,38 triệu tấn, năm 2021 đạt trên 4,56 triệu tấn, năm 2022 đạt 4,75 triệu tấn, vượt mục tiêu đề ra.

Thứ ba, đã ứng dụng phổ biến các thành tựu KHCN trong chăm sóc cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản, góp phần nâng cao năng suất lao động. Việc ứng dụng phổ biến các TBKT, máy móc hiện đại, đẩy nhanh cơ giới hóa vừa góp phần giải phóng sức lao động của người nông dân, vừa bảo đảm tính thời vụ, tăng năng suất và giảm tổn thất sau thu hoạch. Số lượng máy móc được sử dụng trong nông nghiệp tăng nhanh, tính đến năm 2022 so với năm 2011, số lượng máy kéo tăng 48%, máy gặt đập liên hợp tăng 79%, máy sấy nông sản tăng 29%; máy chế biến thức ăn gia súc tăng 90,6%; máy chế biến thức ăn thủy sản tăng 2,2 lần; máy phun thuốc trừ sâu tăng 3,1 lần… Các kỹ thuật canh tác mới trong sản xuất lúa được người nông dân áp dụng rất nhanh, trong đó, các giải pháp không gây tác hại tới môi trường, bằng việc sử dụng nấm xanh, nấm trắng, nấm Tricoderma, vi khuẩn Bacillus… được ưu tiên. Các mô hình sản xuất thân thiện với môi trường, ứng dụng TBKT mới được triển khai, nhân rộng đến nông dân, đã xây dựng và áp dụng có hiệu quả các quy trình thâm canh theo tiêu chuẩn VietGAP đối với nhiều loại cây trồng đã góp phần giảm chi phí sản xuất, phát thải khí nhà kính, sản xuất sản phẩm an toàn so với canh tác truyền thống.

Việc vệ sinh chuồng trại chăn nuôi cũng áp dụng các công nghệ tiên tiến nhất, xử lý tự động hoặc sử dụng đệm lót sinh học bảo vệ môi trường… Ngoài ra, các thiết bị, quy trình công nghệ hiện đại đã được ứng dụng trong nghiên cứu, sản xuất và tiêm vắc xin phòng trừ dịch bệnh cho vật nuôi, qua đó, nâng cao năng suất và chất lượng thương phẩm, đồng thời, giảm thiểu chi phí và công sức lao động của bà con nông dân.

Thứ tư, trong khâu thu hoạch, bảo quản nông phẩm ứng dụng KHCN đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần hạn chế tổn thất, nâng cao giá trị hàng hóa. Trong khâu thu hoạch lúa, vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có mức độ cơ giới hóa đạt trên 82%, vùng Đông Nam Bộ đạt khoảng 70% và khu vực phía trung du miền núi phía Bắc đạt 25%. Tỷ lệ cơ giới hóa trong thu hoạch một số loại nông sản khác trên phạm vi cả nước cũng tăng nhanh: mía khoảng 20%; đốn, hái chè đạt 25%; sấy chủ động 55%. Các quy trình công nghệ tiên tiến, các chế phẩm sinh học ưu việt, an toàn ngày càng được sử dụng phổ biến trong bảo quản nông phẩm, như: công nghệ CAS (cells alive system), bảo quản thực phẩm đông lạnh của Nhật Bản; quy trình công nghệ bảo quản rau quả tươi bằng phương pháp khí quyển điều chỉnh CA (controlled atmosphere); bảo quản trái cây bằng màng MA (modified atmosphere); bảo quản bằng chế phẩm tạo màng; bảo quản quả trên cây bằng chế phẩm retaine (AVG)…

Trong khâu giết mổ, bảo quản sản phẩm từ chăn nuôi, nhiều tiến bộ KHCN mới đã được sử dụng, đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với các quy mô và mục đích khác nhau, như: công nghệ đông lạnh CAS (Cells Alive Sytem) được tập đoàn ABI, Nhật Bản chuyển giao; công nghệ plasma lạnh; công nghệ làm mát, đông lạnh; phương pháp đóng gói cải tiến MAP (Modified Atmosphere Packaging) và phương pháp bao gói chân không…

Thứ năm, ứng dụng KHCN trong tiêu thụ nông sản ngày càng có vai trò quan trọng, tạo ra phương thức kinh doanh mới, hiện đại và hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh việc tiêu thụ nông sản bằng các biện pháp truyền thống tại các chợ dân sinh, siêu thị, cửa hàng thực phẩm thì việc tiêu thụ nông sản, thực phẩm thông qua các ứng dụng công nghệ ngày càng phát triển. Để phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu mua hàng tại nhà của nhiều gia đình trẻ hiện nay, nhiều cơ sở sản xuất bán sản phẩm nông sản của mình qua hình thức online như mạng xã hội: Fanpage, Facebook, Instagram, Zalo, YouTube… Năm 2022, Bắc Giang là tỉnh đi đầu trong việc ứng dụng thương mại điện tử tiêu thụ nông sản với số lượng lớn và được đánh giá là thành công khi giá bán luôn được duy trì ổn định từ đầu đến cuối vụ. Tổng doanh thu từ vải thiều và các dịch vụ phụ trợ ước đạt 6.821 tỷ đồng, tương đương với năm có doanh thu cao nhất so với các năm trước đó. Thị trường nội địa được quan tâm, mở rộng và chiếm khoảng 58,6% tổng sản lượng tiêu thụ. Vải thiều được bán trực tuyến trên nền tảng online, hạ tầng internet trên các sàn giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) lớn trong nước và quốc tế (Voso, Sendo, Tiki, Shopee, Lazada, Postmart, Alibaba…) với sản lượng tiêu thụ đạt khoảng trên 6.000 tấn, lớn nhất từ trước tới nay.

Sự thành công vụ vải thiều Bắc Giang cũng là kinh nghiệm cho các địa phương học tập và triển khai như: na Chi Lăng Lạng Sơn, sản phẩm mận hậu và xoài tròn Yên Châu – đặc sản của Sơn La, nhãn Hưng Yên…. Sản phẩm trực tiếp đi từ tay người sản xuất đến người tiêu dùng mà không cần qua kênh trung gian nên cả người bán và người tiêu dùng đều được hưởng lợi.

Giải pháp đẩy nhanh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp

KHCN ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân nói riêng. Để sớm hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô hớn theo hướng hiện đại, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, đem lại giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững; hội nhập nền kinh tế thế giới theo mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định thì tất yếu phải đẩy nhanh ứng dụng KHCN vào sản xuất. Cụ thể:

Một là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi người lao động trong nông nghiệp là lực lượng trực tiếp lựa chọn, tiếp nhận các thành tựu KHCN đưa vào sản xuất, họ cũng là người biết huy động, khai thác các nguồn lực cho sản xuất một cách hiệu quả nhất. Mặt khác, người lao động cũng chính là lực lượng thường xuyên đưa ra những phát minh, sáng kiến cải tiến những thiết bị, quy trình công nghệ phù hợp với thực tiễn SXNN. Do vậy, cần tiếp tục đa dạng hóa, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tri thức, kỹ năng và đổi mới tuy duy cho người lao động trong nông nghiệp. Thực hiện tốt nội dung, biện pháp này sẽ có ý nghĩa quyết định đến việc đẩy nhanh tiến trình ứng dụng KHCN vào SXNN trên phạm vi cả nước, cũng như ở từng địa phương.

Hai là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp. Đây là giải pháp rất quan trọng vừa tạo hành lang pháp lý, vừa tháo gỡ những nút thắt để khơi thông và huy động có hiệu quả các các nguồn lực, các lực lượng tham gia vào hoạt động này. Theo đó, cần đổi mới toàn diện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN vào SXNN trên phạm vi cả nước và từng địa phương theo các nguyên tắc của thị trường; xây dựng cơ chế tài chính phù hợp, hỗ trợ cho hoạt động ứng dụng KHCN vào SXNN của địa phương; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai nhằm tạo điều kiện thuận lợi để triển khai công tác ứng dụng KHCN vào SXNN; bổ sung và hoàn thiện chính sách đầu tư nhằm khuyến khích, hỗ trợ các DN, chủ trang trại, hộ nông dân đẩy mạnh quá trình đổi mới, ứng dụng KHCN vào SXNN.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước để lựa chọn các mô hình SXNN phù hợp; đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại tạo nền tảng đẩy nhanh quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN ở từng địa phương. Cần chuyển đổi nhanh mô hình sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa lớn, tạo ra động lực bên trong thúc đẩy ứng dụng tiến bộ KHCN hiện đại vào SXNN. Ưu tiên phát triển mạnh các DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao làm đầu tàu thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN mới vào SXNN. Cùng với đó, tiếp tục huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, hệ thống điện lực và thông tin.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển thị trường và hợp tác về KHCN phục vụ trong nông nghiệp. Thực hiện tốt giải pháp này vừa tạo ra nguồn cung phong phú, tăng cơ hội cho các chủ thể trong nước lựa chọn được những các sản phẩm KHCN tiên tiến, hiện đại, phù hợp. Mặt khác, việc đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN với các nước có nền nông nghiệp phát triển còn là giải pháp quan trọng để Việt Nam rút ngắn thời gian, nâng cao năng lực nghiên cứu và làm chủ KHCN phục vụ SXNN một cách nhanh nhất.

Năm là, đẩy mạnh SXNN theo chuỗi liên kết bền vững nhằm mở ra các cơ hội ứng dụng KHCN vào SXNN ở nước ta. Đây là giải pháp có vị trí, vai trò rất quan trọng, không chỉ góp phần đẩy nhanh quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN một cách toàn diện, đồng bộ mà còn tạo nền tảng để kinh tế nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam - Ảnh 1

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II, H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.130;
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.241;
  3. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (2021), Thống kê xuất khẩu thủy sản của năm 2021 (https://vasep.com.vn/);
  4. Phạm Bảo Dương (2010), Nghiên cứu chính sách khuyến khích, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, Viện chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn.