Gói hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp “tắc” do đâu?


Gói hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp “tắc” do đâu?

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng làm rõ vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Ảnh: VPQ
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng làm rõ vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Ảnh: VPQ

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, một trong những lý do khiến gói hỗ trợ lãi suất 2% chưa đạt kỳ vọng đặt ra là do thiết kế chương trình rất thận trọng, khiến người đi vay, đơn vị cho vay đều "ngại".

Cuối phiên thảo luận về kinh tế - xã hội chiều 01/11, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã giải trình một số nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm.

Làm rõ vấn đề tăng trưởng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, dù kết quả chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng vẫn rất đáng trân trọng và tích cực. Trong khi các nước khác như Thái Lan dự báo tăng trưởng 2,7%, Malaysia 4%, Indonesia 5%, Trung Quốc 5%, kết quả của chúng ta là một sự nỗ lực rất cao của cả hệ thống chính trị.

Liên quan đến Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, một số chính sách của Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, người dân và người lao động đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần vào kết quả cao trong 9 tháng đầu năm nay.

Bên cạnh các hỗ trợ này, chúng ta cũng đã dành hơn 50% nguồn lực của Chương trình cho đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội. Những dự án quan trọng, dự án trọng điểm mang tính chiến lược của quốc gia hiện đang triển khai rất tích cực.

“Các dự án này chúng ta đã dành 176.000 tỷ đồng/337.000 tỷ đồng của cả Chương trình cho đầu tư hạ tầng, bên cạnh việc hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, người lao động” - Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thông tin.

Tuy nhiên, việc triển khai một số chính sách chưa đạt được kết quả như mong muốn; trong đó, việc giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% chậm.

Lý giải nguyên nhân, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, có hai lý do. Thứ nhất, do nền kinh tế gặp khó khăn nên nhiều doanh nghiệp có đủ điều kiện vay lại không vay, do đơn hàng, do tình hình sản xuất. Ngược lại, một số doanh nghiệp muốn vay lại không đủ điều kiện vay.

Thứ hai, do thiết kế chương trình hỗ trợ rất thận trọng, trong đó có quy định về "dự án có khả năng phục hồi". Quy định này khiến người đi vay, đơn vị cho vay đều "ngại" trong việc hiểu thế nào là doanh nghiệp có khả năng phục hồi; do đó, chưa đạt kỳ vọng chương trình đưa ra.

Hiện nay, mới giải ngân được 873 tỷ đồng, gần bằng 2% kế hoạch. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết: "Chính phủ đã trình Quốc hội cho phép sẽ thực hiện tiếp chương trình này đến hết năm 2023, nếu không đạt được, chúng ta sẽ hủy dự toán. Đây là khoản chúng ta chưa phát hành, chưa huy động nên không ảnh hưởng gì đến bội chi. Thay vào chính sách hỗ trợ 2% lãi suất, chúng ta sẽ chuyển tiếp sang xin giãn, hoãn thuế Giá trị gia tăng cũng như các thuế khác trong thời gian tới để hỗ trợ cho doanh nghiệp".

Trước đó, qua kiểm toán chính sách này, Kiểm toán nhà nước đánh giá, bên cạnh một số nguyên nhân khách quan do tâm lý e ngại về hồ sơ thủ tục hậu kiểm của khách hàng; khách hàng gặp khó khăn về chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn… thì còn một số nguyên nhân chủ quan từ phía các ngân hàng thương mại (NHTM).

Cụ thể, các NHTM chưa chủ động, tích cực triển khai chính sách. Qua số liệu thống kê các NHTM báo cáo Ngân hàng nhà nước cho thấy, có 13 NHTM không rà soát, thống kê được số hồ sơ đủ điều kiện hỗ trợ lãi suất theo đánh giá chủ quan dẫn đến không triển khai chính sách một cách hiệu quả; một số NHTM rà soát có hồ sơ đủ điều kiện hỗ trợ lãi suất nhưng thực tế số tiền hỗ trợ lãi suất lại bằng “0”.

Bên cạnh đó, một số NHTM tự rà soát số lượng khách hàng thuộc đối tượng đủ điều kiện hỗ trợ lãi suất tương đối lớn nhưng kết quả hỗ trợ lại rất thấp; cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách còn hạn chế…

Để tiếp tục triển khai hiệu quả chính sách này, các đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ quan tâm, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chính sách; đồng thời, cần làm rõ trách nhiệm trong việc triển khai kết quả thực hiện còn hạn chế./.

Theo Báo Kiểm toán