Huy động nguồn lực tài chính để đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam

Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 7/2020

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là chủ trương đúng đắn, kịp thời của Chính phủ nhằm đáp ứng nhu cầu học nghề, tạo việc làm ổn định, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Việc huy động nguồn lực tài chính để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn là vấn đề cấp thiết đặt ra. Thông qua nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ Bộ Tài chính, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, bài viết chỉ ra thực trạng về huy động nguồn lực tài chính phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong thời gian tới.

Đặt vấn đề

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một trong những chiến lược quan trọng, góp phần giảm nghèo và thực hiện an sinh xã hội. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ và khuyến khích công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương trong cả nước về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Đề án đưa ra mục tiêu, năm 2020 phải hoàn thành đào tạo nghề cho 6.000.000 lao động nông thôn, trong đó khoảng 5.500.000 lao động nông thôn được học nghề với tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề đạt 80%. Như vậy, nhu cầu phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn là rất cao, trong khi các điều kiện về cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, giáo viên cho dạy nghề còn nhiều hạn chế.

Thực trạng huy động nguồn lực tài chính đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam

Mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho lao động nông thôn ở Việt Nam gồm có các trường cao đẳng, trường trung cấp và trung tâm giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở dạy nghề khác. Trong giai đoạn 2011-2019, số lượng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tăng lên đáng kể, tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp từ 1.293 cơ sở năm 2011 đã tăng lên tới 1.912 cơ sở vào năm 2019.

Tính đến tháng 12/2019, cả nước có 1.912 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 466 trường cao đẳng (chiếm 24,4% tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp), 402 trường trung cấp (chiếm 21% tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp) và 1.044 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (chiếm 54,6% tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp).

Cùng với sự phát triển nhanh của hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, quy mô đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong những năm vừa qua cũng không ngừng tăng lên. Năm 2011, cả nước mới chỉ có 7% lao động nông thôn được đào tạo nghề, đến năm 2019 tỷ lệ này đã tăng lên 10,1%. Mặc dù, tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo nghề vẫn chiếm một tỷ trọng tương đối khiêm tốn trong tổng lực lượng lao động ở nông thôn nhưng đã chứng tỏ được nỗ lực của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương nhằm nâng cao đời sống người dân và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tổng nguồn lực tài chính huy động được để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn không ngừng tăng lên qua các năm. Giai đoạn 2011-2019, tổng nguồn lực tài chính huy động được là 203.422 tỷ đồng, gồm nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước (NSNN), nguồn lực tài chính từ cộng đồng, nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp và nguồn lực tài chính từ nguồn vốn nước ngoài. Trong đó, nguồn lực tài chính huy động được từ nguồn NSNN chiếm tỷ trọng lớn nhất, với tổng số thu được trong giai đoạn từ 2011-2019 là 125.033 tỷ đồng; nguồn lực tài chính huy động từ cộng đồng là 43.482 tỷ đồng, nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp là 28.897 tỷ đồng, nguồn lực tài chính từ nguồn vốn nước ngoài là 6.010 tỷ đồng.

Chi NSNN để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn so với tổng chi NSNN cho giáo dục đào tạo và dạy nghề cũng chiếm tỷ trọng nhất định. Năm 2011, tỷ lệ này là 9,6%, năm 2012 là 8,97%, năm 2013 là 7,74%, năm 2014 là 9,38%, năm 2015 tỷ lệ này là 9,05%. Đến năm 2016, tỷ lệ này là 6,88% và đạt 6,01% vào năm 2019.

Sở dĩ giai đoạn từ 2016-2019, tỷ lệ chi đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong tổng chi cho đào tạo nghề và trong tổng chi cho giáo dục giảm xuống là do đây là giai đoạn sau của Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nguồn lực tài chính từ NSNN phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn này tập trung cho đào tạo, hỗ trợ người học nghề, trả lương cho người dạy mà không cần phải tập trung đầu tư vào cơ sở vật chất như giai đoạn đầu nữa.

Thêm vào đó, khi bước vào giai đoạn sau, hoạt động phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã thu hút thêm được nguồn lực tài chính từ các chủ thể khác, hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng có những bước phát triển có thể thu được nguồn lực từ việc bán các sản phẩm sản xuất từ hoạt động đào tạo nghề.

Lúc này, NSNN ngoài vai trò là nguồn lực chủ yếu còn đóng vai trò là vốn mồi để thu hút thêm các nguồn lực tài chính khác phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nguồn lực tài chính của NSNN để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn được phân bổ theo ba nhóm hoạt động là chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi chương trình mục tiêu quốc gia.

Bên cạnh nguồn lực tài chính từ NSNN, nguồn lực tài chính từ cộng đồng cũng là một nguồn lực quan trọng cho việc phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nguồn lực này cũng tăng lên đáng kể trong những năm qua. Nguồn lực tài chính từ cộng đồng bao gồm: học phí, lệ phí tuyển sinh; các khoản thu từ hoạt động sản xuất thực nghiệm tạo ra sản phẩm hoặc các đơn vị được hình thành để chuyên trách hoạt động sản xuất dịch vụ, các khoản thu từ liên kết với các địa phương, ngành, cơ sở sản xuất được thực hiện thông qua các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học.

Nguồn lực tài chính huy động được từ doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng nguồn lực tài chính huy động để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Giai đoạn 2011-2015, nguồn lực tài chính huy động được từ khu vực này là 11.573 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng từ 6,6%-12,8% trong tổng nguồn lực tài chính huy động được để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Nguồn lực tài chính từ nguồn vốn nước ngoài trong giai đoạn 2011-2019 luôn chiếm một tỷ trọng nhất định trong tổng nguồn lực tài chính phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tổng nguồn lực tài chính thu được từ nguồn vốn nước ngoài trong giai đoạn này là 6.010 tỷ đồng.

Giải pháp huy động nguồn lực tài chính phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam

Để nâng cao khả năng huy động nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp trọng tâm sau:

Một là, huy động nguồn lực tài chính từ NSNN. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện xã hội hóa, đa dạng hóa chương trình đào tạo, đa phương hóa các hình thức huy động vốn cho giáo dục đào tạo nói chung, cho giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nguồn lực tài chính phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn là đa nguồn, trong đó NSNN chiếm tỷ trọng chủ yếu và giữ vai trò quan trọng.

Để tăng thêm nguồn NSNN đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp nói chung và phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau: (i) Đổi mới cơ cấu chi NSNN phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn; (ii) Đổi mới cơ chế phân bổ, giao dự toán thu chi cho các cơ sở đào tạo, đảm bảo hiệu quả nguồn lực tài chính từ NSNN; (iii) Nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cho phát triển đào tạo nghề lao động nông thôn.

Hai là, huy động nguồn lực tài chính từ cộng đồng. Để tăng nguồn lực tài chính từ cộng đồng cần chú trọng vào giải pháp sau: (i) Tăng nguồn thu từ học phí, lệ phí; (ii) Tăng cường huy động nguồn lực tài chính từ trong nội bộ các cơ sở đào tạo. Việc gia tăng tỷ trọng thu học phí, lệ phí phụ thuộc vào hai yếu tố khách quan và chủ quan. Khách quan là chính sách học phí của Nhà nước. Chủ quan là việc triển khai thực hiện chính sách học phí của Nhà nước do các cơ sở đào tạo thực hiện. Do đó, việc nâng cao tỷ trọng thu học phí, lệ phí trước hết phải hoàn thiện, đổi mới chính sách học phí, lệ phí của Nhà nước.

Ngoài ra, để có thể gia tăng các khoản thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ đối với các cơ sở đào tạo, trong thời gian tới cần thiết phải soát xét, đánh giá hiện trạng các xưởng trường trong các cơ sở đào tạo, từ đó xác lập chính sách và hỗ trợ đầu tư hệ thống các xưởng trường bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao có thể thương mại hóa; Xây dựng chủ trương tận dụng các cơ sở xưởng trường hiện có để tạo ra những sản phẩm cần thiết thực hiện xã hội hóa sản phẩm tăng thêm nguồn thu của cơ sở đào tạo.

Ba là, huy động nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để nâng cao tỷ lệ nguồn đầu tư và tài trợ của các doanh nghiệp phát triển hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan của các cơ sở đào tạo như: (i) Đổi mới công tác quản trị nội bộ, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nghề, nâng cao uy tín và thương hiệu nhằm tạo ra sự hấp dẫn cho các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, tài trợ; (ii) Hoàn thiện công tác quy hoạch kế hoạch hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn; (iii) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn, hội nghị khách hàng nhằm thu hút đầu tư và tài trợ.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có các chính sách để đẩy mạnh thu hút đầu tư, tài trợ của các doanh nghiệp. Cụ thể: (i) ưu tiên về chính sách thuế; (ii) xây dựng phương thức huy động nguồn tài chính thông qua sự tham gia của doanh nghiệp; (iii) xây dựng cơ chế thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và người sử dụng các sản phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ.

Bốn là, huy động nguồn lực tài chính từ nguồn vốn nước ngoài. Đây là một trong những giải pháp đi tắt đón đầu quan trọng trong việc tiếp thu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phục vụ cho đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng tay nghề, kỹ thuật cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các giải pháp nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế trong hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải được thực hiện đồng thời cả ở phía Nhà nước và phía các cơ sở đào tạo. Về phía Nhà nước: khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác về đào tạo nhằm trao đổi kinh nghiệm tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam và tăng cường thêm nguồn lực phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Về phía các cơ sở đào tạo: Đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài về đào tạo nghề và nghiên cứu khoa học; triển khai ứng dụng nhằm mỏ rộng quy mô; chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ năng lực để thực hiện có hiệu quả các dự án; tranh thủ nguồn vốn trang bị cơ sở vật chất phương tiện dạy học để nâng cao năng lực và khai thác nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động đào tạo nghề của cơ sở đào tạo.

Kết luận

Phát triển đào tạo nghề nói chung, phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế ổn định và lâu dài, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay. Tuy nhiên, để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn thì một yếu tố không thể thiếu đó là nguồn lực tài chính. Để huy động được tối đa nguồn lực tài chính để đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần có các chính sách đồng bộ, sát thực để hỗ trợ, sát thực tiễn yêu cầu.

Đặc biệt là các nguồn lực tài chính đầu tư cần được triển khai kịp thời, để hỗ trợ hiệu quả cho không chỉ các cơ sở đào tạo mà còn với người lao động học nghề... Qua đó, nhằm đào tạo ra những người lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nghiên cứu với kỳ vọng tìm kiếm những cách thức tốt hơn trong việc huy động nguồn lực tài chính phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg, Quyết định Phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”;
2. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2017), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2017;
3. Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê;
4. Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo Điều tra lao động việc làm.