Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2019

Yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động khiến các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến chức năng kiểm toán nội bộ.

Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ. Nguồn: Internet.
Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ. Nguồn: Internet.

Trên thế giới, nhiều nước đã thành công trong triển khai thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italia, Australia... Ở Việt Nam, việc thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ xuất hiện vào những năm 1990, song đến nay, số doanh nghiệp vận dụng thành công chưa nhiều. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn trước đây, bài viết chỉ ra bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp ngành Thép nói riêng, góp phần vào thực hiện thành công chức năng kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp.

Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ

Hoa Kỳ

Trước năm 2001, các doanh nghiệp (DN) Hoa Kỳ không bắt buộc phải thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ (KTNB). Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của một số tập đoàn kinh tế lớn, Đạo luật Sarbanes Oxley được ban hành, các DN niêm yết phải duy trì chức năng KTNB, thiết lập Ủy ban kiểm toán (UBKT) thuộc Hội đồng quản trị (HĐQT) và phải báo cáo về kiểm soát nội bộ trong báo cáo hàng năm. Do đó, số lượng DN của Hoa Kỳ có chức năng KTNB ngày càng tăng. Trong DN, KTNB trực thuộc và báo cáo trực tiếp cho HĐQT.

Kiểm toán viên nội bộ (KTVNB) do UBKT tuyển dụng và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban này. KTNB có đủ quyền hạn, đảm bảo tính độc lập và được trao đổi thông tin với UBKT thường xuyên. KTVNB có thể hoàn toàn từ nội bộ hoặc thuê ngoài từ các hãng kiểm toán độc lập. Hầu hết KTVNB tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Chứng chỉ KTVNB được cấp bởi Viện KTVNB (IIA) là yêu cầu bắt buộc. Nội dung KTNB đã mở rộng sang kiểm toán quản lý, ưu tiên kiểm toán hoạt động kiểm soát, quản lý rủi ro và quản trị doanh nghiệp (QTDN). Chuẩn mực của IIA yêu cầu thực hiện đánh giá chất lượng chương trình, đánh giá nội bộ ít nhất 5 năm một lần (Nguyễn Thị Hồng Thúy, 2013).

Anh

Tại Anh, KTNB chưa phải là yêu cầu bắt buộc, các công ty niêm yết có thể tự nguyện lựa chọn sử dụng chức năng KTNB. Quy tắc kết hợp trong quản trị DN của Anh yêu cầu UBKT của các công ty niêm yết phải nêu rõ trong báo cáo thường niên về lý do nếu không có chức năng KTNB và cân nhắc việc sử dụng chức năng này trong năm kế tiếp. Anh khuyến khích chia sẻ quy tắc đạo đức, tiêu chuẩn thực hành chuyên nghiệp về KTNB do IIA ban hành. Các công ty lớn phải có UBKT độc lập hoàn toàn, các công ty nhỏ phải có ít nhất 2 thành viên UBKT độc lập và mỗi UBKT phải có ít nhất một thành viên có kinh nghiệm thực tiễn về tài chính hoặc có liên quan (Ismael, 2018).

Pháp

Năm 1960, KTNB chính thức xuất hiện ở Pháp. Năm 1965, Hội KTVNB Pháp thành lập và đã có chuẩn mực KTNB. Chính phủ Pháp không can thiệp trực tiếp vào việc thực hiện chức năng KTNB của DN. KTNB tham gia chủ yếu vào các hoạt động quản trị DN, trong đó, vai trò đảm bảo mạnh hơn với trọng tâm là các cam kết đảm bảo về việc đánh giá kiểm soát nội bộ và kiểm toán tuân thủ. Đối với cam kết tư vấn, KTNB đưa ra lời khuyên và tham gia vào các dự án hay kiểm toán việc thực hiện pháp luật và các quy định mới. Định kỳ, KTNB tham gia họp với UBKT. Đa số các kế hoạch KTNB dựa trên đánh giá rủi ro và Điều lệ KTNB được phê duyệt bởi lãnh đạo cấp cao và UBKT.

Italia  

Bộ luật Preda năm 2001 yêu cầu các công ty niêm yết phải thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ, KTNB được khuyến nghị không bắt buộc. Chức năng tư vấn của KTNB được chú trọng hơn với nội dung xoay quanh vấn đề quản trị DN và quản lý rủi ro. Các DN của Italia tiếp cận KTNB theo 1 trong 3 phương pháp: Tiếp cận truyền thống, tiếp cận theo định hướng rủi ro và tiếp cận rủi ro kết hợp tư vấn. Trong đó, phương pháp tiếp cận dựa trên định hướng rủi ro phổ biến nhất và chủ yếu ở các tổ chức tài chính. Những công ty nhỏ, ít KTVNB thì lựa chọn phương pháp truyền thống. Đối với các công ty lớn, phương pháp tiếp cận rủi ro và tư vấn là lựa chọn phù hợp nhất (Allegrini và D'Onza, 2003).

Australia

Ở Australia, các công ty niêm yết không bắt buộc phải có chức năng KTNB. Tuy thế, những công ty tự nguyện có chức năng KTNB chiếm một tỷ lệ đáng kể, bao gồm nhiều loại hình khác nhau, trong đó, nhiều nhất là các công ty niêm yết, song vẫn có cả các công ty gia đình, các DN nông nghiệp. Phần lớn các công ty niêm yết của Australia dựa hoàn toàn vào đội ngũ KTVNB tại chỗ, việc thuê chức năng KTNB đang là xu hướng. Quy mô KTNB tăng dần, thuận chiều với quy mô công ty (Goodwin và Kent, 2006).

Trung Quốc

Tại Trung Quốc, vai trò quan trọng của KTNB đang dần được khẳng định. Viện KTVNB Trung Quốc được thành lập và các văn bản chứa những quy định về KTNB được ban hành: Quy chế KTNB- năm 1985, Điều lệ kiểm toán năm 1988, Những quy định về KTNB năm 1989, Luật Kiểm toán năm 1994 và Quy chế KTNB- năm 1995. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các hoạt động kinh doanh được quản lý và kiểm soát trực tiếp của Chính phủ, các DN thiếu động lực nên không thiết lập chức năng KTNB. KTNB được thành lập bởi các mệnh lệnh hành chính của Nhà nước mà không dựa trên nhu cầu tự thân. Do vậy, KTNB của Trung Quốc trong giai đoạn đầu chứa đựng một số khiếm khuyết cố hữu. KTNB tập trung vào kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động chưa được quan tâm. Trong bộ máy của DN, KTNB thuộc Ban giám đốc hoặc thuộc bộ phận tài vụ (Viện KTNB Trung Quốc, 2009, Báo cáo phát triển và nghiên cứu về KTNB DN nhà nước của Trung Quốc).

Thực tiễn thực hiện kiểm toán nội bộ tại Việt Nam

Ở Việt Nam, KTNB chính thức xuất hiện năm 1997. KTNB như một công cụ của quản lý, đã đáp ứng một phần nhu cầu quản lý và đã hoạt động khá hiệu quả ở một số DN. Tuy nhiên, sau một thời gian, KTNB bộc lộ nhiều hạn chế về mô hình tổ chức, nội dung, phương pháp và quy trình; số DN thiết lập mới bộ phận KTNB không tăng, một số DN đã xóa bỏ hoặc sáp nhập bộ phận KTNB vào những bộ phận khác, do KTNB không phát huy được hiệu quả hoặc không còn phù hợp với yêu cầu quản lý (Phan Trung Kiên, 2014; Vũ Thúy Hà, 2017; Nguyễn Thị Hồng Lam, 2014).

Những năm gần đây, sự phát triển KTNB trong các DN Việt Nam cho thấy, những dấu hiệu tích cực như chuyển dần trọng tâm kiểm toán sang kiểm toán hoạt động; phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro, mô hình KTNB trực thuộc UBKT hoặc HĐQT được một vài DN áp dụng... Bên cạnh đó, KTNB có nhiều hạn chế như nội dung kiểm toán hoạt động tương đối đơn giản, phương pháp thực hiện mang tính kinh nghiệm và thủ công, KTVNB chủ yếu có chuyên môn về kế toán, tài chính và không có chứng chỉ KTVNB; Vị trí của KTNB trong bộ máy quản trị chưa đủ độc lập, thẩm quyền; Quan điểm và nhận thức của nhà quản trị về KTNB chưa đầy đủ, đúng đắn (Vũ Thúy Hà, 2017; Phan Trung Kiên, 2014; Nguyễn Thị Hồng Lam, 2014)

Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn chức năng KTNB của một số nước có thể rút ra bài học cho các DN Việt Nam nói chung, DN ngành Thép nói riêng, cụ thể:

Thứ nhất, về thể chế và vai trò của Nhà nước đối với KTNB: Mỗi quốc gia có thể chế khác nhau về việc thực hiện chức năng KTNB. Cách tiếp cận bắt buộc như Hoa Kỳ có thể khiến một số công ty buộc phải có chức năng KTNB dù không thực sự cần thiết. Cách tiếp cận tự nguyện có giải trình như của nước Anh lại khuyến khích DN tự nguyện sử dụng KTNB, song có thể dẫn đến khả năng một số DN không sử dụng KTNB ngay cả khi thực sự cần thiết.

Về vai trò của Nhà nước, đa số các quốc gia không có quy định cụ thể trong luật và Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà tôn trọng nhu cầu của DN về KTNB. Các nước thừa nhận tầm quan trọng của KTNB và khuyến khích thực hiện KTNB thông qua việc quy định ràng buộc đối với các vấn đề liên quan như trách nhiệm giải trình, hiệu lực của kiểm soát nội bộ... Các sàn giao dịch chứng khoán lớn như: NYSE của Hoa Kỳ, ASX của Australia, đều yêu cầu các công ty niêm yết phải có chức năng KTNB hiệu quả như một phần của cấu trúc quản trị. Còn ở Trung Quốc và Việt Nam, KTNB được thành lập và vận hành bởi các mệnh lệnh hành chính của Nhà nước mà không dựa trên nhu cầu tự thân nên KTNB chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng.

Thứ hai, về vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp: Hoạt động KTNB được điều chỉnh bằng chuẩn mực và hệ thống các quy định mang tính hướng dẫn hành nghề, trên cơ sở áp dụng và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Bỉ, Italia, Australia, Trung Quốc, Malaysia… đều đã thành lập Hiệp hội nghề nghiệp riêng về KTNB. Các tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc ban hành các chuẩn mực thực hành KTNB, cẩm nang hành nghề; tổ chức đào tạo, đánh giá và cấp chứng chỉ cho KTVNB, tiêu biểu như IIA của Hoa kỳ, ACCA của Anh  hay CPA của Australia.

Thứ ba, về mô hình quản trị và tính độc lập, thẩm quyền của KTNB: Bài học từ Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italia, Australia cho thấy, các nước này đều có các điều luật, quy tắc, quy định về quản trị DN hiện đại được áp dụng rộng rãi. Trong mô hình quản trị, KTNB trực thuộc cấp quản trị cao nhất (thường là Hội đồng quản trị) nhằm đảm bảo tính độc lập, thẩm quyền của KTNB đối với các bộ phận, hoạt động được kiểm toán; UBKT chịu trách nhiệm tuyển dụng nhân sự, chỉ đạo, giám sát và phê duyệt những quyết sách quan trọng liên quan đến chức năng KTNB.

Thứ tư, về nội dung và phạm vi của KTNB: Nội dung và phạm vi của chức năng KTNB thay đổi theo hướng tập trung vào kiểm toán hoạt động gồm kiểm toán hiệu quả, hiệu năng của các hoạt động, trong đó kiểm toán hoạt động công nghệ, hoạt động sử dụng tài nguyên và năng lượng, kiểm toán môi trường và an toàn lao động là những nội dung gắn liền với đặc thù của DN ngành Thép. Đồng thời, KTNB cũng nhấn mạnh đến nội dung của kiểm toán quản lý theo các chức năng gồm: Ra quyết định, kế hoạch, tổ chức và điều hành.

Thứ năm, về phương pháp tiếp cận và áp dụng công nghệ của KTVNB: Tự động hóa thông tin kinh tế của DN và phương pháp kỹ thuật KTNB đang phát triển nhanh chóng, từ thủ công đến tự động hóa bằng cách áp dụng các kỹ thuật toán học và kỹ thuật kiểm toán sử dụng hệ thống xử lý điện tử dữ liệu (EDF). Các kỹ thuật thử nghiệm, đánh giá và phân tích đã được chuẩn hóa và cải tiến rất nhiều, mở rộng các thủ tục kiểm toán chi tiết, kiểm tra hệ thống, hoạt động và kiểm toán công nghệ thông tin... Song song với đó, phương pháp tiếp cận truyền thống đang dần nhường chỗ cho phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro. DN Việt Nam nên chủ động áp dụng công nghệ thông tin và kiểm toán dựa trên định hướng rủi ro làm cơ sở cho hoạt động đảm bảo và tư vấn giúp tăng cường trách nhiệm giải trình, tăng cường giám sát và kiểm soát mềm; giúp gắn kết mục tiêu của KTNB với mục tiêu chiến lược của DN.

Thứ sáu, vấn đề nhân sự thực hiện chức năng KTNB: Kinh nghiệm của các nước cho thấy, vấn đề nhân sự trong hoạt động KTNB thực sự quan trọng. Từ thực trạng này, DN cần kết nối với các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp để có chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cấp chứng chỉ KTVNB; đồng thời, xây dựng hệ thống chỉ tiêu, đánh giá năng lực KTVNB có một đội ngũ KTVNB đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, năng lực và đạo đức. Về chuyên môn, KTVNB không nhất thiết phải là các chuyên gia về kế toán - tài chính mà cần đảm bảo được năng lực tổng thể của nhóm kiểm toán với các chuyên gia đến từ các lĩnh vực khác nhau như: Kế toán, kiểm toán, quản lý tài chính,  quản trị kinh doanh, kỹ sư, công nghệ thông tin, luật và đặc biệt phải am hiểu đặc thù ngành Thép.            

Bài báo là sản phẩm của đề tài cấp Đại học 2017 “Tăng cường chức năng KTNB tại Tổng công ty Thép Việt Nam” Mã số: ĐH 2017 - TN08 –10. Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Tuân*

Tài liệu tham khảo:

  1. Phan Trung Kiên (2014), Phát triển bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 206 (II) tháng 8/2014, trang  63-71;
  2. Nguyễn Thị Hồng Lam (2014), Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại các Tổng công ty Thương mại Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Thương mại, Hà Nội;
  3. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2013), Một số vấn đề về lựa chọn thuê ngoài dịch vụ kiểm toán nội bộ, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 196 (II), tháng 10/2013;
  4. Vũ Thúy Hà (2017), Hoàn thiện kiểm toán nội bộ tại các tổng công ty thuộc
    Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Thương mại, Hà Nội.
  5. Allegrini, M. and D’Onza, G. (2003), Internal auditing and risk assessment in large Italian companies: an empirical survey, International Journal of Auditing, Vol. 7 No. 3, pp. 191-208;
  6. Ismael. H. R., Roberts. C. (2018), Factors affecting the voluntary use of internal audit: evidence from the UK, Managerial Auditing Journal Vol. 33 No. 3, 2018, pp. 288-317, Emerald Publishing Limited 0268-6902.