Bước ngoặt sau 10 năm gia nhập WTO

PV.

Kể từ sau khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã nhận được không ít những cơ hội từ WTO. Điều này, được thể hiện cụ thể qua các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất nhập khẩu…

Nền kinh tế được duy trì và phát triển đúng hướng

Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản để đánh giá thành tựu phát triển kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.

Nền kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO (2007 – 2016), mặc dù bị ảnh hưởng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, song tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn quanh ngưỡng 6,29%.

Tốc độ tăng trưởng trên được đánh giá là ở mức cao và là thành tựu hết sức quan trọng, nếu xét trong điều kiện rất khó khăn thiên tai, dịch bệnh, sự biến động giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế toàn cầu…

Nhờ mức tăng trưởng kinh tế được duy trì, thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể. Cụ thể, nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289 USD thì đến năm 2015 con số này đã là 2.228 USD, dự kiến năm 2016 là 2.445 USD, cao gấp gần 8,5 lần so với năm 1995.

Sau 10 năm gia nhập WTO, GDP bình quân đầu người đạt ở mức khả quan, bình quân là 1.600 USD đầu người, nhờ đó mức sống của người dân đã được cải thiện. Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.

Sản xuất kinh doanh từng bước được nâng lên

Tỷ lệ giữa kim ngạch xuất khẩu so với GDP của Việt Nam trong 10 năm qua tuy có suy giảm trong năm 2009 nhưng vẫn đạt ở mức khá cao. Mức này của Việt Nam năm 2016 là 80,5%, thuộc loại cao so với tỷ lệ chung của thế giới, đứng thứ hạng khá cao so với các nước trong khu vực ASEAN.

Sản xuất nông nghiệp 10 năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh và đảm bảo sản xuất ổn định. Năm 2015, sản lượng lúa cả năm đã đạt ở mức cao, ước thực hiện 44,75 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 44,5 triệu tấn.

Sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt 50,1 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 50,0 triệu tấn, tăng gần 10 triệu tấn so với năm 2007. Mức lương thực bình quân đầu người năm 2015 đạt 546,4 kg và xuất khẩu các sản phẩm từ khu vực nông nghiệp đạt mức cao trên 20,6 tỷ USD…

Giai đoạn 2011-2015 sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng 10%. Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực.

Công nghiệp khai khoáng giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm 2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015.

Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định, trong 10 năm qua mặc dù hai năm 2008, 2009 còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng vẫn đạt mức bình quân 10 năm gia nhập WTO là 6,75%, cao hơn so với mức tăng trưởng bình quân chung của nền kinh tế.

Năm 2015, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,27%. Doanh thu du lịch đạt mức cao 240 nghìn tỷ đồng năm 2015, dự kiến đạt 260 nghìn tỷ đồng năm 2016.

Du lịch quốc tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 9,0 triệu so với 4,2 triệu năm 2007, khách nội địa dự kiến đạt 42 triệu năm 2016… Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có tốc độ tăng trưởng được duy trì và là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên GDP của 10 năm 2007-2016 đạt tương ứng là 46,5%, 41,5%, 42,7%, 41,1%, 33,3%, 31,1%, 30,5%, 31,0%, 30,5% cho các năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, đạt 31,0% theo kế hoạch năm 2016.

Năm 2007, tổng vốn đầu tư chỉ đạt 532,1 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2016 dự kiến đạt 1.588 nghìn tỷ đồng, bằng 31,0% GDP. Vốn FDI trong 10 năm 2007-2016, thực hiện được khoảng 112,23 tỷ USD. FDI thực hiện bình quân mỗi năm từ khi gia nhập WTO đạt là 11,22 tỷ USD.

Xuất nhập khẩu 10 năm qua đã có được những kết quả vượt trội nhờ mở rộng thị trường. Nổi bật, năm 2015, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đạt 162,4 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2007, tăng 8,1% so với năm 2014, trong đó khu vực FDI đạt 111,3 tỷ USD, tăng 18,5%.

Nhập siêu giảm cũng là một trong những tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Về các mặt xã hội và bảo vệ môi trường, 10 năm qua trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, bảo vệ môi trường và các hoạt động văn hóa xã hội khác đều đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Cần tới những cải cách mang tính đột phá

Theo đánh giá, trong giai đoạn 2007-2016, Việt Nam luôn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, bình quân 6,29%/năm nhưng chúng ta cũng đã trả giá không nhỏ.

Bởi vì, để đạt được mức tăng trưởng đó, tổng đầu tư cho phát triển luôn ở mức cao (30,0% - 46,5%), cao hơn nhiều so với các nước khác. Như vậy, hiệu quả và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và suy giảm cả tăng trưởng về lượng.

Nhiều năm qua, ngoại thương Việt Nam luôn bị thâm hụt với mức tuyệt đối cao. Điều này chứng tỏ, các nước đã tận dụng tốt cơ hội trong hội nhập WTO để đưa hàng hóa vào Việt Nam ngày càng nhiều, trong khi Việt Nam lại chưa tận dụng tốt cơ hội từ hội nhập WTO mang lại.

Nhìn chung, 10 năm hội nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển và chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chưa được cải thiện. Vì vậy, cần phải có những cải cách đột phá, đặc biệt là tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của cơ chế “một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính hà nước cương quyết và hiệu quả. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.

Thứ hai, cần sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các doanh nghiệp, các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển logistics xanh.

Thứ ba, cần nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống logistics của Việt Nam, bao gồm: Cơ sở hạ tầng logistics, thể chế pháp luật về phát triển dịch vụ logistics, phát triển các doanh nghiệp cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics… nhằm đẩy nhanh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng.

Thứ tư, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam thực sự sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho xuất khẩu của Việt Nam.

Thứ năm, cùng với việc đổi mới thế chế, hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất xuất khẩu sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.