Nhập siêu: Vấn đề và giải pháp

PGS.,TS. Ngô Trí Long

(TCTC) Trong những năm qua, nước ta nhập siêu ngày càng lớn. Chúng ta phải chấp nhận tình trạng này trong chừng mực nhất định vì nhiều loại thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ. Tuy nhiên, không thể xem nhẹ vấn đề nhập siêu cao bởi nhập siêu tăng thì cán cân thương mại luôn thâm hụt lớn, đe dọa đến ổn định kinh tế vĩ mô và cũng là một nhân tố góp phần gây nên lạm phát ở nước ta.

Thấy gì qua tình hình nhập siêu của Việt Nam?
Nhìn lại tình hình nhập khẩu 8 tháng đầu năm, tuy nhập khẩu có chiều hướng giảm, song nhập nhập siêu vẫn là một vấn đề cần được cảnh báo và đáng quan tâm. Tính chung 8 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập siêu 16 tỷ USD, bằng 36,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, gấp hơn 2 lần mức nhập siêu cùng kỳ năm 2007. Có tháng nhập siêu rất cao, lên đến 8,2 tỷ USD (tháng 2) và 7,3 tỷ USD (tháng 3) nhưng tới tháng 7 và tháng 8 nhập siêu đã giảm dần xuống dưới một tỷ USD mỗi tháng.
Việc nhập siêu có chiều hướng giảm là tín hiệu đáng mừng. Theo dự kiến của Bộ Công Thương, nhập siêu cả năm 2008 sẽ khoảng từ 19-20 tỷ  USD, chiếm tỷ lệ 30% so với xuất khẩu. Như vậy bình quân trong những tháng cuối năm, nhập siêu sẽ ở mức xấp xỉ  dưới 1 tỷ USD. Để kết quả đạt được như dự báo trên là một điều không phải dễ dàng, cần phải có đề án cụ thể với các giải pháp hết sức thiết thực xuất phát từ những đặc điểm nội tại của tình trạng nhập siêu hiện nay.
Thứ nhất, về cơ cấu nhập siêu, hiện khoảng 85% giá trị hàng nhập khẩu là nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị cho sản xuất, phần lớn từ các nước châu Á và ASEAN. Phân tích cơ cấu này, cần nghiên cứu xem liệu Việt Nam có đang nhập khẩu thiết bị, công nghệ có trình độ trung bình hoặc lạc hậu của thế giới hay không, khi hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là khoáng sản thô và hàng gia công?
Theo một số chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, đáng lẽ Việt Nam phải nhập siêu từ các nước tiên tiến như Mỹ và châu Âu để tiếp thu tri thức, công nghệ và các sản phẩm tiên tiến của họ, thì Việt Nam lại  xuất siêu sang các thị trường này. Trong khi đó, với khu vực châu Á, đặc biệt là các nước ASEAN, Việt Nam lại luôn ở thế nhập siêu và thực trạng này đã kéo dài nhiều năm nay. Điều này hoàn toàn bất lợi cho nền kinh tế, bởi sản phẩm ở thị trường châu Á thường không mang tính chiến lược lâu dài và công nghệ thấp. Thậm chí có ý kiến quan ngại rằng chúng ta đã giúp họ tiêu thụ sản phẩm tồn kho.
Thứ hai, trong khi khu vực kinh tế trong nước luôn trong tình trạng nhập siêu, thì ngược lại, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lại liên tục xuất siêu. Điều này cho thấy hiệu quả và sức cạnh tranh của các DN trong nước còn thấp. Đó cũng là hệ quả của việc các DN trong nước thiếu đầu tư dài hơi, nhập khẩu thiết bị công nghệ trình độ  thấp, giá rẻ, ví dụ như đầu tư xi măng lò đứng trước kia hay công nghệ sản xuất mía đường, phân bón hiện nay. Hiện trong tổng số 300 nhà máy phân bón của Việt Nam, chỉ có khoảng 1/10 là đáp ứng được tiêu chuẩn công nghệ hiện đại. Tình trạng này đã khiến DN trong nước bị cạnh tranh với hàng ngoại nhập ngay trên sân nhà. Số liệu điều tra của Cục Phát triển DN vừa và nhỏ cho thấy có đến 88% DN vừa và nhỏ của nước ta có công nghệ trung bình hoặc lạc hậu. Ngay tại Tp Hồ Chí Minh - trung tâm công nghiệp lớn nhất nước - cũng chỉ mới có 30% DN có công nghệ sản xuất tiên tiến. Đặc biệt là ngành Dệt May, một ngành chủ lực của xuất khẩu nước ta, công nghệ cũng chỉ đạt mức trung bình. Từ đây cho thấy ngoài vấn đề hạn chế nhập siêu, còn một vấn đề cần đặc biệt quan tâm nữa, đó là công tác quản lý: Làm sao để thay đổi từ lượng sang chất trong cơ cấu xuất nhập khẩu, chuyển từ xuất khẩu dầu thô, hàng gia công sang các mặt hàng tinh chế, có hàm lượng chất xám cao bằng sự đầu tư cả về chính sách lẫn tầm nhìn quy hoạch.
Thứ ba, mặc dù  thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rất khả quan, giải ngân nguồn này cũng tăng cao, song kim ngạch và cả tốc độ tăng xuất khẩu của các DN này lại đang có xu hướng giảm. Tám tháng đầu năm nay DN FDI chỉ xuất khẩu được 15,8 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng 28% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi nhập khẩu lại tới 19,2 tỷ USD, tăng 41,3% so với cùng kỳ năm trước. Cho tới thời điểm này, các doanh nghiêp FDI đã nhập siêu tới 3,4 tỷ USD
Như vậy, tình trạng nhập siêu thời gian qua ở nước ta không chỉ ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô, đến lạm phát, lấn át thị phần của sản phẩm sản xuất trong nước, mà còn phản ánh những nghịch lý đáng lưu tâm về cơ cấu hàng nhập siêu, công tác quản lý trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá như đã nêu trên, đòi hỏi phải có những biện pháp kiên quyết để hạn chế nhập siêu thật hiệu quả.
Giải pháp nào để hạn chế nhập siêu?
Cần khẳng định rằng Chính phủ rất kiên quyết trong việc hạn chế tình trạng nhập siêu trên cơ sở thực hiện phương châm đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Chính phủ đã và đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp như: Ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo đủ vốn và ngoại tệ cho các DN làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho DN, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Nhờ vậy nhập siêu thời gian qua đã giảm dần.
Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng nhập siêu cao, góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, trong ngắn cũng như dài hạn, theo chúng tôi cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:
Đẩy mạnh xuất khẩu
Số liệu thống kê cho thấy, giá trị xuất khẩu vừa qua tăng hầu hết là do tăng giá, chứ không phải do lượng tăng. Trừ hạt tiêu và nhân điều có sự tăng trưởng về số lượng, còn các mặt hàng  xuất khẩu khác thậm chí còn giảm về số lượng. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, thì tốc độ tăng trưởng  xuất khẩu 8 tháng qua chỉ là 21% chứ không phải 39,1% như đã công bố. Điều này đã được các cơ quan quản lý của nước ta và một số tổ chức quốc tế cảnh báo. Theo dự báo của một số tổ chức quốc tế, nền kinh tế thế giới đang suy giảm, do vậy tiêu dùng trên nhiều thị trường, nhất là tại Nhật Bản, châu Âu và Mỹ đang giảm và có nguy cơ kéo dài sang năm 2009. Do vậy, việc xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Việt Nam như may mặc và đồ điện tử sẽ chịu sức ép lớn. Điều này cho chúng ta thấy cần phải có sự thay đổi về thị trường  xuất khẩu và cơ cấu xuất khẩu hàng hoá theo thị trường.
Để gia tăng xuât khẩu, hạn chế nhập siêu, vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Hiện quy định về việc hạn chế vay vốn của Ngân hàng Nhà nước đang gây khó khăn cho DN. DN không được phép vay ngoại tệ để thanh toán chi phí trong nước, mà phải vay bằng tiền đồng Việt Nam, trong khi lãi suất giữa hai đồng tiền này rất khác nhau.
Bên cạnh vấn đề vốn và tỷ giá, tình trạng thiếu lao động và cắt điện đột ngột cũng tác động tiêu cực đến sản xuất, xuất khẩu. Nguồn điện cho sản xuất không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu xuất khẩu 61,2 tỷ USD trong năm 2008.
Trên cơ sở phân tích trên, theo chúng tôi, Ngân hàng Nhà nước nên nới lỏng các quy định về vay bằng ngoại tệ. Hiện việc hạn chế mức tăng trưởng tín dụng cho vay không quá 30% làm cho tình trạng vay vốn của DN càng trở nên căng thẳng, vì thế có thể tăng mức tín dụng này lên 40% hoặc 50% để giảm bớt khó khăn cho DN. Đồng thời cũng cần nới rộng biên độ tỷ giá giữa USD và VND hơn mức quy định 2%, để tránh cho các DN xuất khẩu rơi vào tình trạng “một cổ 2 tròng”. Mức lãi suất vay quá cao đối với DN cũng cần được hạ bớt.
Mặt khác, cần có chính sách khuyến khích các DN đổi mới công nghệ sản xuất và quy trình quản lý để tăng năng suất, tiết kiệm chi phí sản xuất, lưu thông, đồng thời tìm ra mặt hàng mới, mặt hàng có lợi thế so sánh, có tiềm năng, mặt hàng tốt có giá trị gia tăng cao, thương hiệu được khẳng định, nhanh chóng khai thác máy móc mới đầu tư.
Phải kết hợp đồng bộ các giải pháp về tài chính, ngân hàng và đầu tư. Chính sách tín dụng cần ưu tiên cho các cơ sở sản xuất, xuất khẩu sử dụng nhiều lao động tại chỗ, tận dụng nguyên vật liệu địa phương, sản xuất hàng thiết yếu, hàng có triển vọng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu thu mua hàng xuất khẩu, tồn trữ ở mức hợp lý khi mùa vụ rộ và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả.
Cần đổi mới, nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại, hướng vào các thị trường trọng điểm. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cấp Nhà nước để thúc đẩy hợp tác, đầu tư, buôn bán với các nền kinh tế; thu hút các tập đoàn đa quốc gia, tạo sự chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có tiềm năng.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực thu thập, phân tích, xử lý thông tin, chất lượng dự báo, khả năng vận dụng những thông tin về thị trường, giá cả trong điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý nhà nước; tăng cường kiểm soát đi đôi với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để thông quan hàng hoá xuất khẩu thuận lợi đảm bảo lợi ích quốc gia. Có thể mở thêm phòng cấp giấy phép xuất nhập khẩu khu vực; duy trì đối thoại giữa các DN với các cấp quản lý, để phát hiện nhanh, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc của các DN xuất khẩu. Lập đường dây nóng để xử lý các tình huống, cải thiện tình hình tắc nghẽn giao thông tại các cảng khẩu.
Kiểm soát nhập khẩu
Các sắc thuế cần khuyến khích nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu phục vụ hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thiết yếu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ, xem xét giảm những mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu. Xác định danh mục hàng nhập khẩu chủ lực, chỉ cung cấp  ngoại tệ cho những mặt hàng này. Thiết lập các hàng rào về kỹ thuật, các biện pháp phi thuế quan trong quản lý nhập khẩu. Giám định chặt chẽ chất lượng hàng nhập khẩu  đảm bảo tiêu chuẩn để sản xuất, lưu thông trên thị trường nội địa...
Khuyến khích sản xuất trong nước và tiết chế tiêu dùng
Có chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghệ sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Huy động tiết kiệm của cả nền kinh tế, từ các DN, mỗi thành viên trong xã hội. Xây dựng được nguồn lực lao động kỹ thuật cao, tay nghề giỏi. Giải quyết khó khăn về tình hình lao động của các DN, nhất là các DN có vốn đầu tư nước ngoài đúng luật pháp, hài hoà lợi ích giữa người lao động và đối tượng sử dụng lao động, không để xẩy ra các vụ phản ứng tập thể.
Chính sách tỷ giá
Trên thị trường ngoại tệ Việt Nam hiện trạng diễn ra một số nghịch lý: Một là, Việt Nam đang nhập siêu,  thâm hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai. Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 đến nay, cung ngoại tệ lại luôn luôn tăng. Hai là, trong khi lãi suất USD của Fed và lãi suất Sibor giảm thì lãi  suất cho vay USD của nước ta  lại tăng và tăng cao hơn. Do đó giá thành hàng xuất khẩu của Việt Nam bị cao hơn, nói cách khác là thu lợi nhuận thấp hơn. Hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ của Việt Nam có nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc thiết bị phải sử dụng vốn vay USD kém sức cạnh tranh hơn so với các đối tác trong khu vực. Ba là, Việt Nam neo giữ tỷ giá VND/USD quá lâu, không đúng với diễn biến của thị trường hối đoái quốc tế, trong khi USD giảm giá mạnh trong hơn 2 năm qua là nguyên nhân quan trọng gây nên lạm phát cao hiện nay. Đồng thời việc neo ghìm tỷ giá VND/USD quá lâu làm cho hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam tăng giá, cũng góp phần  gây nên lạm phát.
Điều hành tỷ giá VND/USD là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với hoạt động xuất nhập khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, chọn bước đi trong điều hành tỷ giá hối đoái phải thận trọng, nếu không phù hợp, rất có thể sẽ gây những hiệu ứng xấu. Chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta phải được đặt trong bối cảnh cụ thể của thương mại đa phương hiện nay. Từ nhiều năm nay, việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của chúng ta mang tính cố định tương đối. Cơ quan quản lý nhà nước bao giờ cũng muốn tỷ giá tương đối ổn định, còn thị trường hối đoái thì lại theo quy luật cung cầu. Trong những tháng qua, vị thế của đồng USD suy yếu  trên thị trường tài chính toàn cầu nên NHTW nhiều nước đã thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ, thay đổi tập quán thương mại. Các ngân hàng thương mại nước ta nên đa dạng hoá ngoại tệ phục vụ cho tín dụng ngoại tệ ngắn hạn, đồng thời nên từ bỏ dần thói quen cho vay bằng ngoại tệ chủ chốt là USD và chuyển sang mua bán các đồng tiền mạnh khác theo cung cầu ngoại tệ. Các DN xuất nhập khẩu nên bỏ thói quen sử dụng đồng USD cho tất cả các hợp đồng ngoại thương. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tính đến một cơ cấu dự trữ ngoại tệ đa dạng và hợp lý. Các cơ quan quản lý phải có năng lực nhận biết thị trường để có những quyết sách đón đầu và phù hợp với quy luật của thị trường. Chính sách tỷ giá hối đoái cần tác động vào cung cầu, việc điều hành  tỷ giá phải linh hoạt có kiểm soát, có một biên độ để các tổ chức tín dụng có cơ sở để ấn định.
Tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân
Trong bối cảnh hiện nay chúng ta phải "kéo" con số nhập siêu xuống mức chịu đựng được của nền kinh tế để góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc kiểm soát nhập khẩu bằng thuế và hạn ngạch chỉ có giới hạn. Thực hiện các cam kết mở cửa thị trường, Chính phủ cũng không thể tăng mãi thuế nhập khẩu, cũng không thể cấm hàng hoá nhập khẩu tiêu dùng từ các nước. Vì vậy việc giảm nhập siêu cần có sự hợp tác, chung tay của từng cá nhân, tổ chức. Giải pháp nhập siêu có hiệu quả và thiết thực nhất đó là từng người dân biết tiết kiệm, giảm bớt tiêu dùng hàng ngoại nhập khẩu không cần thiết, nhất là hàng xa xỉ, phải tiết kiệm ngoai tệ, ưu tiên chi ngoại tệ để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, những nguyên nhiên vật liệu cần thiết cho sản xuất. Về phần mình,  Nhà nước cần tuyên truyền nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi công dân trong tiêu dùng cho phù hợp với định hướng giảm nhập siêu. Làm được như vậy, con số nhập siêu chắc chắn sẽ giảm đi đáng kể.
Trong thời gian tới tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến khó lường, song với thực tế về điều hành của Chính phủ thời gian qua, hy vọng xuất khẩu sẽ được đẩy mạnh, nhập siêu sẽ được hạn chế. Theo đó, lạm phát từng bước được kiềm chế, kinh tế vĩ mô sẽ dần được ổn  định. Những điều này sẽ tạo cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế.