Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu?

PGS., TS. Trần Đình Thiên - ThS. Nguyễn Chiến Thắng

(TCTC) Xu hướng nhập siêu tăng vọt sau khi nước ta trở thành thành viên WTO là một hiện tượng bất bình thường. Việc gia tăng nhập siêu trong hoàn cảnh nền kinh tế thế giới bất ổn, giá cả tăng cao, đồng nghĩa với việc nhập khẩu và tích lũy lạm phát, trở thành nguyên nhân tiềm tàng gây bất ổn vĩ mô. Do vậy, nó cần được phân tích và lý giải cẩn thận.

 Tình hình nhập siêu 7 tháng đầu năm 2008
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, nhập siêu trong 7 tháng đầu năm 2008 đạt 15,828 tỷ USD, cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (trong khi mức của năm 2007 đã cao gấp 2,5 lần năm 2006) và bằng 32,6% kim ngạch XK. Về động thái nhập siêu trong 9 tháng đầu năm 2008, có thể thấy trong 4 tháng đầu năm, mức nhập siêu tăng một cách chóng mặt. Sau đó, mức nhập siêu giảm mạnh trong các tháng 5, 6, 7, 8 và 9 nhờ vào tác dụng của một số biện pháp kiềm chế nhập khẩu (NK) do Chính phủ ban hành.
Phân tích sâu hơn cho thấy, đóng góp vào mức nhập siêu tăng cao trong 4 tháng đầu năm 2008 có yếu tố của sự mất giá đồng USD. Đồng USD xuống mức 16000 VND trong tháng 1/2008 và  giảm xuống còn khoảng 15800 VND trong tháng 3, tháng 4/2008, đã góp phần kích thích NK và hạn chế xuất khẩu (XK) trong thời gian này. Ngoài ra thuế NK giảm trong khuôn khổ cam kết AFTA, WTO cũng như giảm thuế đơn phương của Việt Nam khiến cho lượng NK tăng lên. Đặc biệt lượng ô tô NK tăng mạnh  cũng là một yếu tố đẩy nhập siêu tăng cao.
Nguyên nhân nhập siêu tăng mạnh sẽ được luận giải kỹ hơn khi mổ xẻ cơ cấu XK và cơ cấu NK theo mặt hàng, thị trường và khu vực sở hữu ở phần dưới đây.

Tình hình xuất, nhập khẩu và nguyên nhân nhập siêu thời gian qua
Xuất khẩu
Năm 2007, kim ngạch XK  đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006. Tuy nhiên, tăng trưởng XK chưa thể hiện mức độ bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập WTO. Kim ngạch XK 6 tháng đầu năm 2008 đạt 29,69 tỷ USD, tăng tới 31,8% so với cùng kỳ năm 2007 (cao hơn đáng kể con số cùng kỳ của các năm 2006, 2007). Tuy nhiên, nếu loại trừ yếu tố giá tăng so cùng kỳ năm 2007 của các mặt hàng XK như gạo (giá XK tăng 80%), dầu thô (69%), than đá (64%), cà phê (40%), cao su (trên 30%)..., thì tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK chỉ là 15,3%.

Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu? - Ảnh 1


Hàng rào bảo hộ tại các nước NK hàng từ Việt Nam khi gia nhập WTO giảm (nhất là hàng dệt may, nông sản) đã có tác động tích cực đến mở rộng XK. XK một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhờ tiếp cận thị trường thuận lợi. Tuy chưa có đột biến, song kim ngạch XK hàng phi dầu thô năm 2007 tăng 27% so với mức 25,9% năm 2006 (6 tháng đầu năm 2008 tăng 28,9% so với 28,8% cùng kỳ 2007). Năm 2007, một số hàng XK đã có kim ngạch tăng đột biến, đó là: cà phê (68,4%), sản phẩm nhựa (51,7%), dệt may (34,2%), túi xách và ví (29,6%), hạt điều (24,5%). Trừ cà phê, các mặt hàng này nhìn chung vẫn duy trì được ở mức độ khác nhau tốc độ tăng XK trong 6 tháng đầu năm 2008; riêng XK gạo có mức tăng rất mạnh. Trong khi XK cà phê (năm 2007) và hạt điều tăng cao còn có thể do nguồn cung ở các nước chủ lực sản xuất các sản phẩm này giảm thì mở rộng XK dệt may, sản phẩm nhựa, túi xách chủ yếu là nhờ tham gia WTO. Việt Nam đã thể hiện tốt hơn lợi thế so sánh tĩnh vốn có của mình (chi phí lao động tương đối thấp, nguồn lực tài nguyên khá).
Tuy nhiên, khối lượng và trị giá XK một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như thủy sản, sản phẩm gỗ, dây điện và cáp điện vẫn chưa có sự biến đổi mạnh so với thời kỳ trước đó, thậm chí có xu hướng chững lại. Các yếu tố kìm hãm XK có thể không còn là hàng rào bảo hộ tại các nước bạn hàng, mà ở mức độ nhất định là do những hạn chế mang tính cơ cấu nội tại nền kinh tế như diện tích, năng suất có hạn, khả năng cạnh tranh thấp do quy trình thủ tục XK vẫn còn chưa thuận tiện, chi phí liên quan đến dịch vụ hậu cần (chuyên chở, bưu chính viễn thông, kho bãi, cảng) và dịch vụ tài chính ngân hàng còn cao. Mặt khác, hạn chế trong từng ngành sản xuất về chất lượng sản phẩm (bao gồm cả an toàn vệ sinh thực phẩm), mẫu mã, tiếp thị và những bất cập trong tận dụng cơ hội khai thác thị trường hiện có và tiếp cận thị trường mới... cũng là các yếu tố kìm hãm đáng kể.

 

Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu? - Ảnh 2

Nhìn vào cơ cấu XK, lắp ráp và gia công có giá trị gia tăng thấp vẫn là những lĩnh vực XK chủ yếu của ngành công nghiệp chế biến. Danh mục hàng XK còn chậm đa dạng hóa. Tỷ trọng kim ngạch 10 mặt hàng quan trọng nhất trong XK mới giảm từ 75,7% năm 2005 xuống 70,8% năm 2007 và 68,7% 6 tháng đầu năm 2008. Điều này có nghĩa là XK nước ta vẫn rất nhạy cảm trước các cú sốc giá cả trên thị trường quốc tế (nhất là đối với các mặt hàng XK chủ lực).
Thị trường bên ngoài trở nên đa dạng hơn. Việt Nam đã thâm nhập được vào các thị trường trọng yếu trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản. Gia nhập WTO là yếu tố tác động tích cực đến thương mại, theo đó XK tăng trên tất cả các thị trường. Năm 2007 thị trường châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn, 45.9%, với kim ngạch khoảng 22,3 tỷ USD, tăng 22.1% so với năm 2006 (6 tháng đầu năm 2008 thị trường châu Á chiếm tỷ trọng 50,2%). Thị trường châu Âu chiếm 21,0% với kim ngạch 10,19 tỷ USD, tăng 30.2% so với năm 2006, chủ yếu do tăng XK dệt may, thủy sản, cao su tự nhiên, đồ gỗ, cà phê, sản phẩm nhựa, và hàng thủ công mỹ nghệ. Riêng mặt hàng xe đạp và giày mũi da tiếp tục gặp khó khăn do EU áp thuế chống bán phá giá (6 tháng đầu năm 2008: 20,2%). Thị trường châu Mỹ chiếm 24,0% với kim ngạch 11,6 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2006 (6 tháng đầu năm 2008: 21.6%). Riêng thị trường Hoa Kỳ chiếm 21,3% với kim ngạch đạt 10,1 tỷ USD (6 tháng đầu năm 2008: 18.2%). Các thị trường châu Phi, Tây Nam Á hiện vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (3,8%) với kim ngạch đạt 1,8 tỷ, tăng 23% so với năm 2006.
Nhìn chung, XK của nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế:
- Qui mô XK còn nhỏ; kim ngạch XK bình quân đầu người thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. XK bình quân đầu người năm của Singapore là 60.600 USD, Malaysia 5.890 USD, Thái Lan 1.860 USD, Philippines 546 USD, còn Việt Nam chỉ mới đạt 570 USD.
- XK tăng trưởng nhanh song dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. Bài học từ những vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũi da, tôm... vẫn còn mang tính thời sự.
- Các mặt hàng XK có giá trị gia tăng cao còn thấp; XK vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp chế biến (như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính) về cơ bản mang tính chất gia công.
- Khả năng chủ động nắm bắt cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường XK còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, từ các hiệp định thương mại đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc... Công tác xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.

Nhập khẩu
Về cơ cấu hàng nhập khẩu
Việc xem xét kỹ hơn cơ cấu NK theo mặt hàng sẽ giúp ta hiểu rõ hơn mặt hàng nào đã góp phần lớn trong giá trị nhập siêu thời gian vừa qua. Bảng 1 cho ta thấy toàn cảnh tình hình NK các mặt hàng năm 2007 - 2008, theo 3 nhóm hàng:  Nhóm cần NK (nhóm I);  Nhóm cần phải kiểm soát NK (nhóm II) và  nhóm hàng cần hạn chế NK (nhóm III). Nhóm I chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị NK (khoảng 70%); trong khi nhóm III chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng NK (khoảng 3-5%). Cơ cấu này cho thấy NK của ta chủ yếu là để phục vụ sản xuất.

Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu? - Ảnh 3
Nhập siêu theo thị trường
Bảng 2 cho thấy  ta chủ yếu nhập siêu với các thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, ASEAN. Trong năm 2007, có 12 mặt hàng đạt giá trị NK trên 1 tỷ USD thuộc nhóm cần thiết NK (nhóm I) thì có 7 mặt hàng được NK chủ yếu từ khu vực Châu Á - TBD trong đó có máy móc thiết bị (6,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 60,8% tổng NK cả nước). NK từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ nguồn và một số nguyên vật liệu phụ trợ, nhưng lượng nhập còn khiêm tốn và tỷ trọng có xu hướng giảm. Như vậy Việt Nam đang NK chủ yếu máy móc thiết bị công nghệ ở mức độ trung bình của thế giới từ khu vực châu Á – TBD (ví dụ công nghệ xi măng lò đứng, công nghệ lắp ráp ô tô từ Trung Quốc, công nghệ sản xuất thép từ Hàn Quốc v.v...), thay vì NK công nghệ nguồn ở trình độ hiện đại hơn từ các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Hệ quả trong dài hạn là hiệu quả của nền kinh tế không cao, khó tạo ra tăng trưởng XK để giảm nhập siêu.  
Nhập siêu theo khu vực sở hữu
Số liệu ở Bảng 3 cho thấy trong các năm vừa qua khu vực FDI luôn xuất siêu và khu vực vốn trong nước luôn nhập siêu. Cụ thể hơn, khu vực FDI NK ít hơn (chỉ 21 tỷ USD/62 tỷ USD tổng NK, chiếm 32%), nhưng lại đóng góp vào XK nhiều hơn so với khu vực trong nước (chiếm gần 60% tổng XK). Đây chính là bằng chứng phản bác lại quan điểm cho rằng nhập siêu mạnh chủ yếu do luồng FDI vào nhiều tạo nhu cầu lớn đối với máy móc thiết bị, và do vậy chúng ta không phải lo ngại gì về “sức khỏe” của nền kinh tế.
Khu vực vốn trong nước NK tỷ trọng lớn hơn (gấp đôi so với FDI), tuy nhiên lại đóng góp ít hơn cho XK, đồng thời lại không thể phát triển ngành công nghiệp trong nước đủ hiệu quả để cạnh tranh với hàng NK. Điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư kém của khu vực vốn trong nước so với khu vực FDI. Trong khi đó, mới đây Chính phủ đã phê duyệt một danh sách dự án đầu tư công với tổng số vốn lên tới 70 tỷ USD từ nay đến 2015. Do vậy, nếu không có một chính sách giám sát đầu tư công có hiệu quả, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp tục phải chịu sức ép nhập siêu trong những năm tới từ phía các doanh nghiệp trong nước.

 

Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu? - Ảnh 4

 

Nguyên nhân chủ yếu của nhập siêu
Qua các phân tích về XK, NK từ các góc độ mặt hàng, thị trường, cũng như khu vực sở hữu, có thể tổng hợp một số  nguyên nhân chủ yếu tạo nên tình trạng nhập siêu đột biến trong năm 2007 và 7 tháng đầu năm 2008 như sau:
l Nguyên nhân về phía NK
- Tăng khối lượng NK do nhu cầu đầu vào sản xuất (đầu tư trong nước và FDI) gia tăng. Theo thống kê của Bộ Công Thương, năm 2007, kim ngạch  NK tăng do khối lượng tăng là 12,4 tỷ USD (20% tổng NK), và trong 6 tháng đầu năm 2008, kim ngạch NK tăng do khối lượng tăng là 12 tỷ USD (26% tổng NK). Khối lượng tăng hàng hóa NK phản ánh nhu cầu đầu vào cho sản xuất trong nước tăng cao.
- Tăng mạnh giá hàng nguyên vật liệu đầu vào:
Giá nguyên vật liệu đầu vào gia tăng đã góp phần làm tăng giá trị NK. Theo thống kê, năm 2007, kim ngạch NK tăng do giá tăng là 7,5 tỷ USD (12% tổng NK), và 6 tháng 2008, kim ngạch NK tăng do giá tăng là 5 tỷ USD (12% tổng NK). Giá một số mặt hàng tăng mạnh như thép thành phẩm; phôi thép; phân bón; chất dẻo; sợi các loại; kim loại thường. Điều này phản ánh bối cảnh lạm phát toàn cầu đang gia tăng.
Có thể dự báo rằng trong những tháng cuối năm, do giá một số mặt hàng NK quan trọng có xu hướng giảm mạnh (giá xăng dầu, giá thép, kéo theo giá nguyên liệu nhựa, phân bón giảm) nên có sẽ tác động giảm nhập siêu đáng kể cho Việt Nam.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức giá tăng chỉ đóng góp 12% kim ngạch NK. Việc kiềm chế NK quá mức trong giai đoạn cuối năm để đạt mục tiêu có thể gây ra những khó khăn không đáng có cho nhiều doanh nghiệp.
- Tăng NK mang tính đầu cơ: Nửa đầu năm 2008, xu hướng gia tăng NK hàng tiêu dùng, đặc biệt là ô tô, đột ngột mạnh lên. Đây là kết quả của phản ứng mang tính đầu cơ trước thông tin Chính phủ sẽ tăng giá đánh vào ô tô NK. Trong 6 tháng đầu năm, kim ngạch NK ô tô nguyên chiếc đạt 742 triệu USD, tăng 454,5% so với cùng kỳ năm 2006.
Ngoài ra, việc dân chúng đổ xô đi mua vàng - hệ quả trực tiếp của tình trạng mất lòng tin vào khả năng ổn định vĩ mô - đã buộc Chính phủ phải cho NK một khối lượng vàng lớn để "ổn định" thị trường cũng góp phần không nhỏ làm gia tăng nhập siêu.

 

Thấy gì qua cơ cấu xuất nhập khẩu? - Ảnh 5


Về phía XK
- Việt Nam vẫn chủ yếu XK sản phẩm thô, giá trị gia tăng thấp. Chậm chuyển dịch sang XK các mặt hàng giá trị gia tăng cao.
- Tốc độ tăng trưởng của các thị trưởng NK chậm lại do lạm phát trên phạm vi toàn cầu, do đó làm giảm nhu cầu đối với hàng XK của VN.
- Cơ cấu đầu tư chậm chuyển dịch vào các ngành XK (bao gồm cả đầu tư trong nước và FDI).
l Về tỷ giá hối đoái
Đồng USD mất giá so với VND trong khoảng nửa cuối năm 2007 sang nửa đầu năm 2008, trong khi đó khoảng 80% lượng thanh toán XNK bằng USD, do vậy đã kích thích NK và kiềm chế XK. Tuy nhiên có một điểm đáng lưu ý là với thị trường Mỹ ta vẫn xuất siêu dù USD mất giá, trong khi đó VND mất giá so với một số nội tệ của một số thị trường nhập siêu lớn. Điều này cần được nghiên cứu kỹ thêm.
Đề xuất các biện pháp giảm nhập siêu
Hiện tại, nhập siêu của Việt Nam vẫn ở mức có thể được bù đắp bởi dòng kiều hối, ODA, FDI. Tuy nhiên, nếu mức nhập siêu tiếp tục gia tăng trong một thời gian dài, thì đó sẽ là một nguy cơ đối với cán cân thanh toán và ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt nếu các nguồn bù đắp trên có dấu hiệu đảo chiều. Đây là điềucuần được đạc biệt cảnh báo khi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng.  Do vậy, việc kiềm chế nhập siêu vẫn là một ưu tiên quan trọng đối với Việt Nam hiện nay. Từ các nguyên nhân được phân tích ở trên đối với hiện tượng nhập siêu, ngoài các biện pháp trực tiếp mang tính ngắn hạn thúc đẩy XK và hạn chế NK có thể đưa ra một số các hướng chính sách mang tính trung và dài hạn như sau:
Phát triển ngành
công nghiệp phụ trợ
Như đã phân tích, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào NK máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu (hơn 80% NK). NK vừa qua tăng đột biến do NK những hàng hóa trên tăng mạnh (cả khối lượng và giá cả). Để tránh sự phụ thuộc quá lớn vào NK hàng hóa trên, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên vật liệu có xu hướng gia tăng, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ. Bằng cách đó, Việt Nam sẽ tiết kiệm được một nguồn ngoại tệ lớn và tránh được những cú sốc về giá khi giá nguyên vật liệu tăng trên thị trường quốc tế.
NK công nghệ từ các nước
tiên tiến
Việt Nam nhập siêu chủ yếu từ các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc với công nghệ, máy móc thiết bị NK ở trình độ trung bình. Do vậy, cần phải có biện pháp hỗ trợ chuyển hướng NK công nghệ nguồn, tiên tiến hơn từ các nước châu Âu hoặc Mỹ. Với công nghệ nguồn như vậy, Việt Nam mới có thể có một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh trong nước và hướng ra XK.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư
Việt Nam cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu đầu tư sang các ngành XK. Đồng thời cũng dần phải dịch chuyển cơ cấu các ngành XK từ chỗ giá trị gia tăng thấp sang hướng giá trị gia tăng cao.
- Có chính sách giám sát đầu tư công hiệu quả, để đảm bảo rằng nguồn vốn đầu tư không tạo ra một nền kinh tế thiếu hiệu quả, không hướng tới tăng trưởng XK bền vững, gây nên nhập siêu trong tương lai.
Ngoài các giải pháp trên đây, một số giải pháp khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh XK - NK cũng cần triển khai thực hiện như giải pháp liên quan đến chính sách tỷ giá, các giải pháp định hướng tiêu dùng, định hướng sản xuất... sao cho sản xuất và tiêu dùng phải hướng vào gia tăng XK, hạn chế NK,  từ đó tình trạng nhập siêu sẽ dần được kiểm soát.