Thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới

Theo Chứng khoán Việt Nam

Quá trình hội nhập quốc tế của một nền kinh tế là sự giao lưu kinh tế trên mọi lĩnh vực thương mại, dịch vụ và tài chính, ngân hàng của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong điều kiện bình đẳng và cùng có lợi. Cũng có thể hiểu rằng, hội nhập quốc tế của một nền kinh tế chính là sự mở cửa của một quốc gia cho phép diễn ra giao lưu hai chiều giữa các hoạt động của nền kinh tế đó và các nền kinh tế khác trên thế giới. Như vậy, sự hội nhập quốc tế của một nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào tình hình kinh tế quốc tế mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của chính nền kinh tế đó như: trình độ dân trí, sự phát triển thị trường trong nước, công nghệ, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý, tính hiệu quả và cơ cấu của nền kinh tế, hệ thống doanh nghiệp và đặc biệt là hệ thống tài chính trong nước cũng như khuôn khổ pháp luật, hệ thống thông tin...

Thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Hội nhập quốc tế có thể đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia như mở rộng thị trường thương mại và đầu tư, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triển nội lực của các doanh nghiệp và điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng hiệu quả hơn trong môi trường cạnh tranh, tăng cường vị thế chính trị, nắm bắt thông tin và cập nhật chiều hướng phát triển của thế giới để định hướng và điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, tận dụng được các chương trình hỗ trợ phát triển song phương và đa phương.

Trước kia, hội nhập kinh tế quốc tế chỉ được hiểu đơn thuần là những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường. Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu rộng hơn, đó là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào sự phát triển kinh tế chung của khu vực và thế giới thông qua các hiệp định kinh tế, thương mại, các quy định chung của các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu mà các nước thành viên tham gia và ký kết. Cụ thể, hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế tài chính quốc tế, mở rộng phạm vi các hoạt động kinh tế trên quy mô quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư dịch vụ nhằm bảo vệ và phát triển kinh tế của đất nước.

Nói như vậy để thấy rằng hội nhập kinh tế quốc tế rõ ràng là một tiến trình mà thị trường chứng khoán (TTCK) không thể đứng ngoài. Vậy, trong tiến trình hội nhập đó, những kết quả mà TTCK Việt Nam đã đạt được là gì, chúng ta có những cơ hội nào và gặp phải những thách thức ra sao trên con đường phát triển?

Chủ trương của Đảng và Chính phủ là làm sao để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra một giai đoạn mới - hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Cam kết trong WTO cũng là mức cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cao nhất mà Việt Nam đã tham gia đến thời điểm hiện tại. Có thể thấy, rõ ràng kể từ khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, thúc đẩy sự phát triển của thương mại, đầu tư và tự do hóa ngành Tài chính Việt Nam.

Sau 5 năm trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ và đúng lộ trình cam kết trong lĩnh vực tài chính nói chung và trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán nói riêng. Khung pháp lý về TTCK như Luật Chứng khoán 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1/7/2011, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán.

Ngoài ra, Thông tư số 212/2012/TT-BTC ngày 5/12/2012 hướng dẫn về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ (CTQLQ) đã có những hướng dẫn khá chi tiết đối với nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tham gia lĩnh vực cung cấp dịch vụ quản lý quỹ trên TTCK Việt Nam. Theo đó, nhà ĐTNN được mua cổ phần, phần vốn góp để sở hữu tới 49% vốn điều lệ của CTQLQ đang hoạt động tại Việt Nam và còn được phép mua để sở hữu 100% vốn điều lệ của CTQLQ đang hoạt động, hoặc được thành lập mới CTQLQ 100% vốn nước ngoài nếu thỏa mãn các điều kiện đã được quy định tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP.

Tính đến thời điểm hiện nay, đã có 9 văn phòng đại diện của các công ty chứng khoán (CTCK) nước ngoài và 25 văn phòng đại diện của CTQLQ nước ngoài được cấp giấy chứng nhận thành lập tại Việt Nam. Trong tổng số 35 CTCK có vốn  góp của đối tác nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, có 10 công ty mà nhà ĐTNN sở hữu đến 49% vốn góp. Đối với CTQLQ, hiện có 9 công ty có vốn góp của nước ngoài, trong đó có 2 CTQLQ cổ mức vốn góp của nhà ĐTNN là 100%. Có thể thấy, hệ thống các văn bản hướng dẫn Luật đã được ban hành và dần hoàn thiện đã và đang thể hiện sự nghiêm túc triển khai thực thi cam kết WTO của Việt Nam, quán triệt nguyên tắc giám sát và quản lý thị trường, minh bạch hóa và bảo vệ nhà đầu tư.

Thành tựu quan trọng mà TTCK Việt Nam đạt được kể từ khi tham gia WTO chính là sự gia tăng đáng kể của dòng vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường trong nước. Sự có mặt của các nhà ĐTNN, các quỹ đầu tư chứng khoán, các tập đoàn tài chính lớn sẽ góp phần chuyên nghiệp hóa TTCK Việt Nam, từ đó tăng cường kinh nghiệm và năng cao tiêu chuẩn về quản trị công ty, khả năng phân tích, đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước. Cùng với đó, quy mô của TTCK cũng tăng lên đáng kể. TTCK tiếp tục phát triển trở thành kênh huy động vốn của doanh nghiệp, cũng là kênh đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa thủ tục đầu tư cho nhà ĐTNN theo Thông tư số 213/2012/TT-BTC được Bộ Tài chính ban hành ngày 6/12/2012 sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà ĐTNN khi tham gia TTCK, đồng thời góp phần tăng tính cạnh tranh và minh bạch cho  TTCK Việt Nam.

Cùng với việc tham gia WTO là sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các tổ chức khu vực như ASEAN, tham gia đàm phán: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)... đã thực sự năng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo ra những cơ hội lớn để đất nước ta sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tiến tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong khuôn khổ ASEAN, các hoạt động hội nhập liên quan đến lĩnh vực chứng khoán của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chủ yếu tập trung vào các sáng kiến nhằm tiến tới xây dựng một thị trường vốn hội nhập cao hơn trong ASEAN, cụ thể gồm các sáng kiến liên quan tới: (i) Kết nối TTCK, (ii) Tiếp cận TTCK, và (iii) Tính thanh khoản của TTCK. Mục tiêu hướng tới trong hội nhập thị trường vốn của khối ASEAN là hài hòa hóa các quy định, chuẩn mực của các nước trong khu vực, ví dụ như: hài hòa hóa chuẩn mực công bố thông tin, hài hòa hóa các quy định phân phối chứng khoán, chuẩn mực kế toán kiểm toán... và tiến tới hiện thực hóa các sáng kiến kết nối khu vực. Các cam kết với ASEAN trong lĩnh vực thị trường vốn chủ yếu về hợp tác phát triển thị trường vốn và không mang tính áp đặt yêu cầu về mở cửa thị trường.

Để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trong khuôn khổ hội nhập thị trường vốn ASEAN, các giải pháp cụ thể mà Việt Nam sẽ tham gia cùng các nước trong khu vực. Bao gồm:

Các Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) trong ASEAN tiến hành cùng các bên có liên quan nghiên cứu và kiến nghị về mô hình khả thi áp dụng cho hoạt động kết nối giao dịch, thanh toán và bù trừ. Các SGDCK có thể xem xét phạm vỉ hài hòa hóa môi trường vận hành thị trường cổ phiếu khu vực bao gồm tiêu chuẩn hóa giờ giao dịch, các điều kiện niêm yết và các quy định khác.

Kết nối thị trường trái phiếu khu vực nhằm đạt được mục tiêu các quốc gia thành viên cập nhật liên tục thông tin sau giao dịch.

Xây dựng năng lực cho các thành viên trong việc quản lý rủi ro. Mục tiêu là nhằm năng cao hiểu biết về vai trò của các công cụ phòng ngừa rủi ro khác nhau, và tăng cường sự hiểu biết của các thành viên ASEAN về phát triển các công cụ đó trong bối cảnh thị trường vốn mỗi nước.

Sự hội nhập của TTCK là tất  yếu, tuy nhiên, quá trình hội nhập sẽ mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Chính vì vậy, việc nhìn nhận ra các cơ hội và thách thức sẽ là điều rất quan trọng để xác định các giải pháp cho sự hội nhập của TTCK Việt Nam, mang lại hiệu quả cao nhất bởi hội nhập thành công của mỗi ngành, mồi lĩnh vực phụ thuộc phần lớn vào việc ta nhìn nhận các khó khăn thách thức ra sao để tiến hành kế hoạch hội nhập của ngành mình.

Theo đánh giá của chúng tôi, những cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại có thể kể đến như sau:

Sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có  năng lực tài chính, và trình độ  quản lý, kỹ thuật kinh doanh hiện đại tạo cơ hội cho các tể chức dịch vụ trong nước tiếp thu kinh nghiệm, năng cao trình độ và chuyển giao công nghệ. Việc cho phép thành lập các  CTCK, CTQLQ 100% vốn nước  ngoài sẽ có tác động tích cực nhất định đến TTCK Việt Nam. Sự có mặt của các công ty này cũng sẽ thu hút vốn ĐTNN, đặc biệt là đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư và tăng tính cạnh tranh giữa các CTCK, CTQLQ trong và ngoài nước;

Ngoài ra, việc thực hiện các cam kết WTO giúp TTCK được tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế; quy mô và phạm vi không gian thị trường được mở rộng; sự lưu chuyển của các luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài qua TTCK được kiểm soát; các nhà đầu tư trong nước được tiếp cận với các dịch vụ tốt hơn và các sản phẩm đa dạng hơn; hệ thống trung gian thị trường phát triển; cơ sở các nhà đầu tư phát triển và mở rộng; các nhà đầu tư trong nước và doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế.

Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của TTCK cũng dần đồng bộ và hoàn thiện hơn để phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, song hành cùng với cơ hội, sẽ là những thách thức mà TTCK sẽ gặp phải như sau:

Khi mở cửa thị trường tài chính theo cam kết WTO, các CTCK, CTQLQ trong nước sẽ phải chu áp lực cạnh tranh gay gắt với các CTCK nước ngoài. Các CTCK nước ngoài có ưu thế về năng lực vốn, chiến lược kinh doanh bài bản, các yếu tố khác như công nghệ, kỹ năng quản trị.

Chuyên môn, nhân lực đều vượt trội so với các CTCK trong nước. Lộ trình mở cửa mà Việt Nam cam kết là cho phép thành lập CTCK, CTQLQ 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam sau 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán trong nước, đặc biệt trong bối cảnh TTCK Việt Nam đang còn gặp rất nhiều khó khăn;

Sự xuất hiện của các loại vi phạm xuyên biên giới trên TTCK (rửa tiền, thao túng, gian lận, giao dịch nội gián...) cộng với nguy cơ biến dạng thị trường và thị trường bị thao túng bởi các nhà ĐTNN là một thách thức đối với cơ quan quản lý;

Cam kết gia nhập WTO về dịch vụ đối với các sản phẩm phái sinh và công cụ chuyển nhượng trên TTCK là một thách thức đối với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cấu trúc thị trường và tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý;

Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và phát triển TTCK đặt ra thách thức cho cơ quan quản lý trong việc làm tốt vai trò quản lý và vai trò phát triển.

Để TTCK ngày càng phát triển, đáp ứng được chủ trương và quyết tâm hội nhập của Đảng và Chính phủ, UBCKNN đã đề ra định hướng và kế hoạch hội nhập quốc tế trong thời gian tới, đồng thời luôn bám sát thực hiện các cam kết dựa trên quan điểm chung của Đảng và Nhà nước là: giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mục tiêu thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế mà UBCKNN đề ra là đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải duy trì và đảm bảo được an ninh tài chính, kinh tế của đất nước hội nhập phải tạo điều kiện để các chính sách trong nước được cải cách theo hướng bám sát các chuẩn mực quốc tế, việc tham gia vào quá trình hội nhập sẽ giúp TTCK Việt Nam tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo sự phát triển của TTCK công bằng công khai, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng là một kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả của nền kinh tế. Việc đạt được các chuẩn mực quốc tế vừa là yêu cầu của quá trình hội nhập, vừa là một trong những lợi ích mà hội nhập có thể đem đến cho TTCK Việt Nam.