Thị trường chứng khoán Việt Nam trong môi trường thực thi các FTA thế hệ mới

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 9/2019

Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) hay các cam kết trong khuôn khổ hội nhập thị trường chung ASEAN… đã và đang thúc đẩy, đòi hỏi thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng phát triển và mở cửa sâu rộng hơn, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, bối cảnh này cũng tạo ra những yêu cầu buộc thị trường tài chính, thị trường chứng khoán Việt Nam phải đáp ứng được các tiêu chuẩn có chất lượng ngày càng cao theo các cam kết quốc tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hội nhập, mở cửa thị trường

2019 đánh dấu 31 năm mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài của nền kinh tế Việt Nam. 2019 là năm thứ 23 thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam hình thành và phát triển, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn, hiệu quả cho đầu tư phát triển, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. So với thời điểm mới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1/2007, đến nay, TTCK Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trong, cụ thể:

Thứ nhất, đạt tốc độ phát triển tương đối nhanh.

 Là một TTCK còn non trẻ nhưng mức vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam đã tăng gần 17 lần trong vòng 10 năm qua, (từ mức 22,7% GDP năm 2006 lên mức 78,5% GDP tính đến cuối tháng 6/2019), vượt chỉ tiêu Chính phủ đã đề ra đến năm 2020.

Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có trên 2,28 triệu tài khoản của nhà đầu tư, tăng 4,7% so với cuối năm 2018, riêng số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài tăng 7%. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức ngày càng phát triển và mở rộng, thị trường đã phát triển các loại hình quỹ mới, qua đó thúc đẩy tính chuyên nghiệp, phân bổ hiệu quả nguồn lực vốn đầu tư, tạo sức cầu bền vững và độ sâu của thị trường.

Với những bước tiến đó, thị trường trái phiếu đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ, các ngân hàng chính sách, chính quyền địa phương và doanh nghiệp (DN). Tính đến hết quý II/2019, quy mô thị trường trái phiếu chính phủ tương đương 27,2% GDP. Huy động vốn của khối DN tư nhân thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu DN đã tăng 70% trong năm 2017 và trên 30% trong năm 2018, đạt 3,7 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có mức huy động vốn thành công nhất khu vực Đông Nam Á. TTCK Việt Nam đã có đóng góp không nhỏ vào thành công của nhiều DN lớn, hỗ trợ tốt cho công tác cổ phần hóa DNNN và cùng với hệ thống tín dụng của ngân hàng tạo ra một cơ cấu thị trường vốn Việt Nam cân đối hơn, hiệu quả hơn, hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Mặc dù, TTCK phái sinh mới ra đời từ tháng 8/2017 với sản phẩm giao dịch đầu tiên là hợp đồng tương lai chỉ số VN30, nhưng thị trường này đã có bước phát triển ấn tượng, tốc độ tăng trưởng khối lượng giao dịch bình quân/phiên năm 2018 gấp 7,2 lần so với năm 2017. Việt Nam đã, đang gấp rút đưa thêm các sản phẩm mới vào giao dịch để tạo ra sự đa dạng cho TTCK như chứng quyền có bảo đảm và hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ. Bên cạnh đó, các sản phẩm khác đang được nghiên cứu để ra mắt như hợp đồng tương lai chỉ số khác ngoài VN30, các hợp đồng tương lai/hợp đồng quyền chọn cổ phiếu đơn lẻ, chứng chỉ lưu ký toàn cầu... 

TTCK tiếp tục là điểm đến hấp dẫn thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Từ năm 2016 đến nay, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài liên tục vào ròng ở mức khá cao (trung bình khoảng 2 tỷ USD/năm). Trong bối cảnh tình hình tài chính - chứng khoán toàn cầu biến động mạnh, xu hướng nhà đầu tư rút vốn khỏi các thị trường mới nổi, thị trường cận biên thì Việt Nam vẫn là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài với giá trị vốn đầu tư gián tiếp vào ròng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 1,8 tỷ USD.

Thứ hai, hệ thống khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách liên quan đến TTCK đã được xây dựng và ngày càng hoàn thiện.

Thời gian qua, Luật Chứng khoán, các nghị định, thông tư hướng dẫn, quy chế, quy trình hoạt động TTCK đã được xây dựng, bổ sung, chỉnh sửa phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế đất nước. Khung pháp lý đã được xây dựng đồng bộ cho hệ thống cấu trúc thị trường từ thị trường sơ cấp cho đến thị trường bậc cao là TTCK phái sinh, góp phần tăng cường tính công khai minh bạch của thị trường, nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý; từng bước phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.

Thứ ba, đã thu hút đông đảo các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hiện nay, TTCK Việt Nam đã có trên 2,28 triệu tài khoản của nhà đầu tư (tăng 4,7% so với cuối năm 2018), trong đó riêng số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài tăng 7%. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức ngày càng phát triển và mở rộng, thị trường đã phát triển các loại hình quỹ mới như: Quỹ mở, quỹ thành viên, quỹ ETF, Quỹ Đầu tư bất động sản và công ty đầu tư chứng khoán, qua đó thúc đẩy tính chuyên nghiệp, sự phân bổ hiệu quả nguồn lực vốn đầu tư, tạo sức cầu bền vững và độ sâu của thị trường. Hệ thống trung gian chứng khoán đã có sự phát triển mạnh về số lượng, quy mô; tính chuyên nghiệp và nền tảng công nghệ ngày càng cao; mạng lưới được mở rộng. Cơ sở hạ tầng tổ chức thị trường ngày càng được nâng cấp và phát triển, từng bước phát triển mô hình theo thông lệ quốc tế.

Các FTA thế hệ mới và sự tham gia của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán

Hội nhập kinh tế thông qua tham gia các FTA thế hệ mới đang trở thành xu thế phổ biến hiện nay. Lý do là bởi các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng và mức độ mở cửa sâu hơn trên hầu hết các lĩnh vực thay vì chỉ tập trung vào lĩnh vực thương mại hàng hóa đơn thuần như các FTA truyền thống. Bên cạnh các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… các FTA thế hệ mới bao trùm cả những nội dung vốn được coi là phi thương mại như môi trường, lao động, DNNN, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa…

Trong đó, mức độ cam kết mở cửa thị trường tương đối cao như xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 95-100% số dòng thuế ngay lập tức hoặc theo lộ trình, mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ, đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc, nghĩa vụ tuân thủ, cơ chế thực thi chặt chẽ…

Việt Nam hiện đang thực thi 2 FTA thế hệ mới, bao gồm FTA song phương với Hàn Quốc và FTA với khối Liên minh Á – Âu. Tuy nhiên, phạm vi “thế hệ mới” của các FTA này chủ yếu mang tính tuyên bố, chưa có các nội dung ràng buộc cụ thể. Các FTA thế hệ mới thực sự mà Việt Nam đã từng đàm phán là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định EVFTA. Đối với dịch vụ chứng khoán, một số nội dung mà Việt Nam đã cam kết cao hơn so với mức mở cửa của Việt Nam trong WTO và các FTA truyền thống có thể kể đến như:

- Cam kết mở cửa thị trường tạo cơ hội tiếp cận tốt hơn cho nhà đầu tư nước ngoài: So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết sẽ mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới, nhằm tạo cơ hội tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như: (i) Mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới; (ii) Dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng.

- Cơ chế bảo hộ đầu tư: Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư thông qua việc bổ sung các nghĩa vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên tắc đối xử tối thiểu. Trong đó, cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ (nhà nước và nhà nước; nhà đầu tư và nhà nước), đặc biệt cơ chế nhà đầu tư với nhà nước cho phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường và cơ chế giải quyết tranh chấp song phương. Cơ chế đảm bảo thực thi được quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn, đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả.

- Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng cho các nước: Các FTA thế hệ mới đều cho phép các nước áp dụng các ngoại lệ cần thiết, tạo ra không gian chính sách gồm các biện pháp thận trọng, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Việc thực hiện cam kết đảm bảo không gian chính sách này chính là để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định.

- Các cam kết khác: Bên cạnh các nghĩa vụ cam kết cơ bản như các FTA truyền thống như nguyên tắc tối huệ quốc tiếp cận thị trường nguyên tắc không phân biệt đối xử nghĩa vụ cung cấp dịch vụ qua biên giới nghĩa vụ đối với nhân sự quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị thì FTA thế hệ mới thường bổ sung các nghĩa vụ mới liên quan đến dịch vụ tài chính mà các nước tham gia phải cam kết và không có ngoại lệ loại trừ như nghĩa vụ cấp phép dịch vụ tài chính mới không gắn với việc ban hành luật mới hoặc sửa đổi luật trong nước; minh bạch hóa; cấp phép nhanh dịch vụ bảo hiểm, nghĩa vụ đối với các tổ chức được ủy quyền quản lý…

Cụ thể, đối với CPTPP, cam kết về dịch vụ tài chính được xây dựng với 2 đặc điểm nổi bật của mô hình FTA thế hệ mới đó là: (i) Kết hợp mở cửa thị trường dịch vụ với bảo hộ đầu tư; (ii) Có cách tiếp cận mới trong liệt kê các cam kết cụ thể theo phương thức “chọn bỏ”, chỉ liệt kê những quy định trong nước không tương thích, các nội dung không được liệt kê được hiểu là cam kết thực hiện.

Ngoài ra, về phạm vi điều chỉnh, Chương Dịch vụ tài chính trong CPTPP ngoài việc điều chỉnh các nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài chính, còn điều chỉnh các nội dung được áp dụng chéo từ Chương Đầu tư. Cụ thể là các nghĩa vụ về bảo hộ đầu tư như nguyên tắc đối xử tối thiểu, cơ chế giải quyết tranh chấp nhà đầu tư và nhà nước. Nội dung về trợ cấp cũng được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Chương. Đối với cấp phép dịch vụ tài chính mới, Việt Nam duy trì được bảo lưu cho phép có thể áp dụng chương trình thử nghiệm thí điểm đối với các dịch vụ tài chính mới, theo đó, có thể áp dụng giới hạn số lượng nhà cung cấp dịch vụ được tham gia hoặc giới hạn phạm vi của chương trình thử nghiệm.

Có thể nói, phạm vi cam kết rộng bao gồm cả các vấn đề thương mại và phi thương mại và mức độ cam kết về tự do hóa rất cao, đặc biệt là loại bỏ các rào cản pháp lý để cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia thị trường, các FTA thế hệ mới như CPTPP hoặc EVFTA chắc chắn sẽ có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ thể chế kinh tế cũng như hoạt động kinh doanh của các DN Việt Nam và sự phát triển của TTCK nói riêng. Nhìn ở góc độ tích cực, đây cũng là cơ hội để TTCK trong nước tự “cải thiện” chính mình để thích ứng với bối cảnh phát triển chung.

Cơ hội phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Sau khi hoàn thành trước thời hạn kế hoạch đạt 70% GDP mức vốn hóa thị trường cổ phiếu trong năm 2019, mục tiêu tiếp theo của TTCK Việt Nam là phấn đấu nâng tỷ lệ vốn hóa/GDP của thị trường lên mức 100% vào năm 2020. Đây là mục tiêu khó khăn, đặt trong bối cảnh TTCK trong nước chịu ảnh hưởng bởi diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, căng thẳng thương mại giữa các nước lớn. Tuy nhiên, xét trên những yếu tố hỗ trợ tích cực, trong đó có sự tham gia của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới, mục tiêu trên hoàn toàn có cơ sở đạt được. 

Thứ nhất, về bối cảnh vĩ mô nói chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, bình quân khoảng 6%/năm trong 30 năm qua và được dự báo tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng cao đến hết năm 2020; các chỉ tiêu về lạm phát, tỷ giá cũng sẽ theo chiều hướng ổn định. Đây là điều kiện thuận lợi để các DN niêm yết mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng về mặt bằng giá cổ phiếu kéo theo mức tăng về vốn hóa thị trường.

Thứ hai, tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gắn với niêm yết trên TTCK tiếp tục được Chính phủ chú trọng đẩy mạnh trong thời gian tới. Theo danh mục DN có vốn nhà nước thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn 2017-2020, sẽ có hơn 400 DNNN thực hiện thoái vốn trong giai đoạn này, qua đó tạo tiền đề cho nguồn cung hàng hóa trên TTCK. Cam kết thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn DNNN, cũng như các giải pháp ưu đãi và tạo thuận lợi cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài luôn được Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhấn mạnh tại các chương trình xúc tiến đầu tư gián tiếp của Bộ Tài chính tại các thị trường trọng điểm nước ngoài như: Mỹ (2015), Nhật Bản (2014 và 2017), Hàn Quốc (2018), Anh (2019).

Thứ ba, việc tham gia và thực thi các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP sẽ giúp đẩy mạnh hoạt động sản xuất – xuất khẩu của các DN niêm yết, khi các cam kết này giúp gỡ bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng hóa, làm tăng cơ hội giúp hàng hóa trong nước tiếp cận nhiều thị trường quốc tế với các điều kiện ưu đãi hơn, giúp các DN kinh doanh mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu. Từ đó, cổ phiếu của những ngành này sẽ hấp dẫn hơn với nhà đầu tư, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và đi lên tích cực của TTCK.

Thứ tư, cam kết trong FTA thế hệ mới buộc các DN trong nước – trong đó có các công ty đại chúng/công ty niêm yết phải đổi mới, tái cấu trúc, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị công ty, quản trị rủi ro, công bố thông tin… để hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán như công ty chứng khoán/công ty quản lý quỹ trong nước, mặt tích cực của sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường khi các Hiệp định này có hiệu lực, đó là sẽ buộc các công ty chứng khoán/công ty quản lý quỹ trong nước phải tăng cường tái cấu trúc, đổi mới hoạt động và tăng  khả năng tích lũy, tích tụ để trở nên mạnh hơn, chiếm được thị phần cao hơn, từ đó giữ vững được vị trí của mình trước xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế.

Theo đó, vị thế của các công ty chứng  khoán/công ty quản lý quỹ ở Việt Nam sau sáp nhập, tái cơ cấu sẽ được nâng lên cả về lượng và chất, không những sẽ giúp thị phần trong nước được kiểm soát, bảo vệ, tăng trưởng, mà còn là cơ sở để phát triển kinh doanh ra các nước khác trong khối, góp phần thúc đẩy hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, quá trình cổ phần hóa DNNN, nhu cầu định giá DN, nhu cầu phát hành, tìm đối tác chiến lược, tìm thị trường niêm yết (trong nước, nước ngoài) sẽ là những yếu tố tăng cầu đối với dịch vụ của các công ty chứng khoán. Như vậy, các tổ chức trung gian tài chính là công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ, là nhóm ngành ăn theo sự sôi động của TTCK, sẽ tăng mạnh lợi nhuận ở cả mảng tự doanh cũng như môi giới.

Thứ năm, các hiệp định FTA thế hệ mới được ký kết sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua TTCK. Với các yêu cầu cam  kết có độ mở sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP hay các nước thành viên EU sẽ phát triển mạnh mẽ, từ đó thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Trên thực tế, làn sóng mua bán và sáp nhập tại Việt Nam gia tăng mạnh trong giai đoạn vừa qua, các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam thông qua việc mua lại các DN trong nước đã gia tăng đáng kể. Bên cạnh đó, các chính sách mới như Luật Đầu tư, Luật DN, Luật Kinh doanh bất động sản… và sắp tới là Luật Chứng khoán (sửa đổi), tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam.

Tham gia vào các FTA thế hệ mới, các cơ hội và thách thức luôn song hành. Sau hơn 20 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã tạo dựng được cơ sở nền tảng cơ bản và tương đối vững chắc để bước vào giai đoạn phát triển mới. Việc tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập sẽ giúp TTCK Việt Nam tiếp cận gần hơn với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo sự phát triển của TTCK công bằng công khai, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu là một kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả của nền kinh tế.    

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020;

2. Báo cáo tình hình hoạt động của  thị trường chứng khoán từ năm 2000 đến nay và các giải pháp, kiến nghị gửi Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2018);

3. "Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới - các vấn đề đặt ra đối với chính sách quản lý và giám sát thị trường chứng khoán Việt Nam", Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2017);

4. www.trungtamwto.vn; ssc.gov.vn.