Kinh nghiệm đảm bảo khả năng thanh khoản cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 7/2019

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển mới cả về lượng và chất, tuy nhiên rủi ro thanh khoản vẫn luôn là vấn đề “nóng” đặt ra đối với tất cả các ngân hàng thương mại.

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển mới cả về lượng và chất. Nguồn: internet
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển mới cả về lượng và chất. Nguồn: internet

Do vậy, bên cạnh việc tự ý thức nâng cao chất lượng thanh khoản, quản lý rủi ro thì việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về đảm bảo khả năng thanh khoản là cần thiết, nhằm góp phần nâng cao công tác quản trị rủi ro nói riêng và đảm bảo sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung.

Thanh khoản và rủi ro thanh khoản

Tính thanh khoản chỉ mức độ của một tài sản bất kỳ có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản cao nếu được bán nhanh chóng mà giá bán không giảm đáng kể, thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn.

Thanh khoản ngân hàng là khả năng mà ngân hàng tức thời đáp ứng được nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng theo cam kết. Khi ngân hàng hạn chế về khả năng cung ứng đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời, hoặc chỉ có thể cung ứng với chi phí cao thì rủi ro thanh khoản ngân hàng xuất hiện.

Thiệt hại từ rủi ro thanh khoản tác động đến cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Cụ thể: Đối với các ngân hàng – xét ở chức năng trung gian tín dụng, khi bị mất thanh khoản sẽ chịu thiệt hại: Buộc phải chạy đua huy động vốn, do đó, dẫn đến lãi suất huy động cao; Lãi suất huy động cao buộc lãi suất cấp tín dụng cao và khó cho vay; Khi buộc phải trả lãi suất huy động nhưng không thể cho vay rõ ràng ngân hàng sẽ bị lỗ; Không đáp ứng được nhu cầu rút tiền dẫn đến mất niềm tin của người gửi tiền (kể cả các giao dịch liên ngân hàng); Không đáp ứng nhu cầu giải ngân cho các khoản cấp tín dụng.

Đối với nền kinh tế, một số vấn đề rủi ro thanh khoản phát sinh gồm: Ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư (khi lãi suất tiền gửi tăng, nguồn tiền tập trung gửi vào ngân hàng làm cho nền kinh tế sẽ giảm kênh huy động vốn); Khi lãi suất cấp tín dụng cao, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, dẫn đến giá cả tăng (lạm phát tăng)...

 Như vậy, rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là rủi ro xuất hiện khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán

Kinh nghiệm từ một số ngân hàng lớn trên thế giới

Các ngân hàng thương mại tại Mỹ

Quản lý thanh khoản luôn là vấn đề trọng tâm trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Mỹ, mặc dù, đây là một trong những nước có thị trường tài chính - tiền tệ đạt đến trình độ phát triển cao, các chuẩn mực quản lý thị trường luôn được hoàn thiện liên tục. Trong quá khứ, một số NHTM nước này đã từng phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng về vấn đề thanh khoản. Chẳng hạn như: Năm 1984, Continental Illinois National Bank of Chicago đã xảy ra tình trạng thiếu hụt tiền mặt nghiêm trọng, vì họ lựa chọn chiến lược quản trị thanh khoản nợ, tức dựa chủ yếu vào nguồn thanh khoản từ vay nợ trên thị trường tiền tệ mà không chú ý tới tích trữ nhiều thanh khoản dưới dạng các tài sản có dễ bán với giá cả ổn định. Hay như trường hợp của Southeast Bank of Miami năm 1991 đã không thể thanh toán được những khoản vay vốn lớn từ Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và bị FED đóng cửa hoạt động...

Từ 2 trường hợp điển hình trên, để quản lý hiệu quả rủi ro thanh khoản, FED đã đưa ra quy định mức tổi thiểu về tiền mặt mà các NHTM phải duy trì thường xuyên. Đồng thời, FED cũng quy định tiền dự trữ bắt buộc phải được để dưới hình thức tiền gửi tại FED hoặc tiền mặt tại quỹ. Quy định cụ thể như sau: Đối với các NHTM có tổng tài sản nợ phải chấp hành dự trữ bắt buộc thấp hơn 4,4 triệu USD thì không phải duy trì dự trữ bắt buộc; Với tiền gửi huy động phải tính dự trữ bắt buộc từ 4,5 triệu USD đến 49,3 triệu USD áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 3%; Với tiền gửi huy động phải tính dự trữ bắt buộc với số lượng trên 49,3 triệu USD thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định là 10%.

Ngân hàng HSBC

Có trụ sở chính đặt tại London, NHTM Hồng Kong – Thượng Hải (HSBC) là một trong những tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính lớn nhất thế giới. Những thành công mà HSBC đạt được từ khi thành lập cho đến nay là nhờ phần lớn vào chính sách quản trị rủi ro mà hội đồng quản trị (HĐQT) đã đặt ra, đặc biệt là quản lý rủi ro thanh khoản.

Các chính sách quản lý rủi ro thanh khoản của HSBC được thiết kế nhằm phát hiện, phân tích, đặt các mức giới hạn thích hợp cho loại hình rủi ro này. HSBC thường xuyên xem xét lại các chính sách và hệ thống quản lý rủi ro của mình để phù hợp với những diễn biến trên thị trường và những thay đổi trong chiến lược hoạt động của HSBC. HSBC duy trì tính nguyên tắc, thận trọng, bảo thủ nhưng mang tính xây dựng trong văn hóa quản lý rủi ro thanh khoản.

HSBC có ban quản lý rủi ro do HĐQT và ban giám đốc lập ra. Tại các chi nhánh của HSBC đều có bộ phận chuyên trách về rủi ro thanh khoản, chịu trách nhiệm trước giám đốc chi nhánh về các vấn đề thanh khoản. Báo cáo về tình hình thanh khoản của các chi nhánh thường xuyên được cập nhật lên các chi nhánh cấp cao hơn. Bên cạnh đó, hội nghị về quản lý rủi ro thường xuyên được tổ chức để báo cáo và rà soát lại tình hình quản lý rủi ro thanh khoản trên toàn hệ thống.

Theo đó, trong hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản, HSBC đề ra các mục tiêu sau:

- Tất cả các nghĩa vụ mà HSBC đã cam kết cấp vốn và các yêu cầu rút tiền gửi phải được đáp ứng khi đến hạn;

- Có thể dễ dàng tiếp cận vốn trên thị trường “bán buôn” với mức chi phí hợp lý;

- Duy trì một nguồn vốn đa dạng và ổn định, trong đó chủ yếu là các khoản tiền gửi của khách hàng cá nhân, doanh nghiệp và tiền trên tài khoản của các tổ chức;

Qua nghiên cứu cho thấy, có 2 điểm nổi bật trong chính sách quản lý thanh khoản của HSBC gồm: (1) Chính sách quản lý thanh khoản phải phù hợp với từng thị trường cụ thể; (2) Các chi nhánh và văn phòng phải chủ động quản lý thanh khoản của chính mình.

HSBC luôn nhấn mạnh từng chi nhánh, từng văn phòng phải tự đảm bảo khả năng thanh khoản của chính mình, dùng nguồn vốn của chính mình, để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản. Chỉ những chi nhánh, hoặc văn phòng nào theo quy định không được huy động tiền gửi tiết kiệm thì mới được trụ sở hoặc các chi nhánh khác tài trợ thanh khoản, nhưng việc tài trợ đó phải tuân thủ theo những quy định hết sức nghiêm ngặt và mức giới hạn nhất định do HĐQT đặt ra.

Việc quản lý thanh khoản của HSBC được từng chi nhánh, từng văn phòng tiến hành một cách linh hoạt, phù hợp với từng địa phương - nơi các chi nhánh, văn phòng đó hoạt động, nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc, mục tiêu mà HĐQT của HSBC đặt ra. Tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường tài chính ở các địa phương mà chính sách quản lý rủi ro thanh khoản của từng chi nhánh, văn phòng ở địa phương đó có thể thay đổi cho phù hợp với thực tiễn.

Ngân hàng SMBC Nhật Bản

NHTM Sumitomo Mitsui (SMBC-Nhật Bản) thành lập năm 1919, không chỉ là một trong những NHTM hàng đầu của Nhật Bản, có uy tín, tiềm lực tài chính và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng tài chính tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn là một trong những ngân hàng hàng đầu trên thế giới về quy mô và mức độ tín nhiệm. SMBC đã thực hiện chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản như sau:

Thứ nhất, để quản lý rủi ro thanh khoản, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã đưa ra những yêu cầu đối với cơ cấu trụ sở chính như một tỷ lệ tối ưu nhất đảm bảo sự ổn định, khả năng thanh khoản và khả năng chi trả của NHTM. Theo đó, SMBC luôn duy trì một lượng vốn cấp 1 và cấp 2 bằng 30% tổng tiền gửi.

Thứ hai, SMBC thực hiện quản lý rủi ro thanh khoản theo mô hình CAMELS bằng cách phối hợp quản lý giữa vốn tự có, chất lượng TSC, quản lý, thu nhập, thanh khoản và độ nhảy cảm.

Thứ ba, SMBC chủ động thiết lập Uỷ ban Quản lý tài sản-nợ nhằm nâng cao công tác quản lý rủi ro thanh khoản thông qua chiến lược quản lý thanh khoản trụ sở chính và chi nhánh.

Thứ tư, SMBC thực hiện chiến lược quản lý phối hợp giữa trụ sở chính và các chi nhánh một cách thống nhất và nhịp nhàng.

Bài học đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng trên thế giới, có thể rút ra một số bài học cho các NHTM Việt Nam trong việc quản lý rủi ro thanh khoản như sau:

Thứ nhất, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Ban quản lý tài sản nợ - tài sản Có (Ban ALCO và những người đứng đầu các chi nhánh, bộ phận trong ngân hàng) trong việc cung cấp các thông tin dự báo, các kiến nghị và báo cáo các chỉ tiêu liên quan đến quản trị thanh khoản thường xuyên và khẩn cấp cho bộ phận đầu mối tổng hợp, phân tích thông tin và cho thành viên ban giám đốc để có chỉ đạo kịp thời.

Thứ hai, Ban quản trị rủi ro thanh khoản cần có các biện pháp nhằm phối hợp giữa quản lý thanh khoản tài sản nợ và quản lý thanh khoản tài sản có để có thể tận dụng đựợc giá trị của tiền mặt trong ngân quỹ vừa có thể đảm bảo huy động vốn trong trường hợp cầu thanh khoản tăng cao. Trong đó, NHTM cần nhận thức rõ rủi ro nào ảnh hưởng đến an toàn thanh khoản, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với tốc độ tăng trưởng tín dụng như mấy năm trở lại đây, các NHTM lại càng phải lưu tâm đến quản trị rủi ro thanh khoản.

Thứ ba, mỗi ngân hàng nên xây dựng, chuẩn bị sẵn kế hoạch chính thức cụ thể đối phó với tình huống thanh khoản bất thường. Trong đó, chú trọng xây dựng các dấu hiệu nguy cơ và các bước cần thiết tại thời điểm đó, quy trình cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời, quy trình hạn chế sự sụt giảm dòng tiền trong tình huống khủng hoảng bằng những hành động rõ ràng, quy trình xác định mức độ ưu tiên của các mối quan hệ khách hàng, kế hoạch đối phó với khách hàng, công chúng, phương tiện đại chúng, chú trọng quan hệ công chúng tốt để giúp ngân hàng tránh được tin đồn và việc rút tiền ồ ạt.

Thứ tư, kiểm soát hiệu quả hoạt động tín dụng bằng các chuẩn mực cụ thể, tránh tình trạng cho vay tràn lan với quy trình thẩm định lỏng lẻo. Đặc biệt, với nhóm ngành như bất động sản, dù là khoản vay cho mục đích đầu tư bất động sản hay sử dụng bất động sản như tài sản thế chấp/đảm bảo cho khoản vay thì tổ chức tín dụng cần có các quy định nghiêm ngặt để giám sát cả trước và sau khi giải ngân.

Thứ năm, các NHTM cần phải nâng cao công tác dự báo kinh tế vĩ mô nhằm chuẩn bị tinh thần cho những biến động thị trường tài chính - tiền tệ, xảy ra một cách bất ngờ có thể ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Thứ sáu, các NHTM cần có công tác quản trị thông tin minh bạch, tránh những tin đồn thất thiệt xảy ra gây ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng và khủng hoảng lòng tin trong công chúng.

Tài liệu tham khảo:

  1. Basel (2008), Nguyên tắc quản lý và giám sát rủi ro thanh khoản;
  2. Basel (2010), Thông lệ tốt nhất về quản lí thanh khoản của các ngân hàng;
  3. Quản lý thanh khoản trong ngân hàng – Rudolf Duttweiler – NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh;
  4. Nguyễn Bảo Huyền (2016). Rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại;
  5. Phan Anh (2016), “Quản lý rủi ro thanh khoản ngân hàng theo tiêu chuẩn Hiệp ước quốc tế Basel”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số tháng 5/2016;
  6. http://vneconomy.vn/tai-chinh/van-tiem-an-rui-ro-thanh-khoan-ngan-hang-20160519023749437.htm.