Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

7 giải pháp xử lý nợ xấu

PV. (Tổng hợp)

(Tài chính) Mặc dù hiện nay, con số công bố nợ xấu là rất khác nhau, nhưng với cách tính toán riêng, các chuyên gia đều đồng quan điểm con số này rất lớn và rất nguy hiểm. Thậm chí, khi đánh giá nợ xấu của ngân hàng, theo TS. Quách Mạnh Hào, tình trạng nợ xấu xuất phát từ mô hình kinh doanh ngân hàng quá rủi ro trong một thời gian dài làm người ta liên tưởng tới mô hình lừa đảo đa cấp Ponzi nổi tiếng thế giới (kẻ bày trò là người thu tiền của người này để trả cho người kia mà không thực hiên bất cứ một hoạt động đầu tư sinh lời nào - PV).

Tại hội thảo “Nhìn lại chính sách tài chính, tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát” vừa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức mới đây, TS. Cấn Văn Lực cho biết, nếu dựa vào số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 9/2012, tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế khoảng 2,88 triệu tỷ đồng, giả định nợ xấu chiếm khoảng 10%, thì con số nợ xấu sẽ tương đương 290 ngàn tỷ đồng. Nếu trừ đi số nợ đã xử lý là 12 ngàn tỷ đồng thì còn 278 ngàn tỷ đồng.

Trên cơ sở quỹ dự phòng rủi ro hiện có của ngân hàng vào khoảng 75 ngàn tỷ đồng, nếu sử dụng hết số quỹ này, thì số nợ xấu còn 203 ngàn tỷ đồng. Trong số 203 ngàn tỷ đồng nợ xấu này thì nợ xấu có tài sản đảm bảo chiếm 73%, tương ứng với số tiền là 148.190 tỷ đồng; nợ xấu không có tài sản đảm bảo chiếm 27% tương ứng với số tiền là 54.810 tỷ đồng. Dư nợ có tài sản đảm bảo bằng bất động sản chiếm 66% ước tính vào khoảng 97.805 tỷ đồng và số nợ còn lại sau khi xử lý hết tài sản đảm bảo là 34.232 tỷ đồng.

Như vậy, tổng nợ xấu cần xử lý sau khi dùng hết quỹ dự phòng rủi ro và tài sản đảm bảo là bất động sản thì vẫn còn 89.042 tỷ đồng.

Theo TS. Cấn Văn Lực, để giải quyết nợ xấu không chỉ có giải pháp thành lập công ty xử lý nợ xấu quốc gia mà cần thực hiện đồng bộ 7 giải pháp sau:

Thứ nhất, giải quyết tồn kho về hàng hóa. Theo đó, tăng xúc tiến thương mại trong và ngoài nước; chấp nhận giảm giá, khuyến mại, nghiên cứu áp dụng hàng rào kỹ thuật cho phép, bê thông hóa đường xá, thủy lợi; liên kết kinh doanh. Đặc biệt tăng truyền thông củng cố niềm tin.

Thứ hai, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Theo đó giảm cung phân khúc cao cấp, không cấp phép mới, rút phép chủ đầu tư thiếu tiềm lực; đồng thời kích cầu: miễn, giảm thuế mua căn nhà đầu tiên, ưu tiên cho vay mua nhà ở, tiếp tục đẩy mạnh gói “4 nhà”, điều chỉnh linh hoạt tỷ trọng cho vay bất động sản; Cải thiện hành lang pháp lý bất động sản: Khuyến khích M&A, chuyển nhượng dự án; thành lập định chế tái tài trợ cho vay nhà ở…

Thứ ba, có 6 phương thức để xử lý nợ xấu. Bao gồm: (1) Cơ cấu lại nợ; (2) miễn giảm lãi và phí tín dụng; (3) Mua bán nợ (thành lập VAMC, chứng khoán hóa nợ xấu); (4) Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại để xử lý; (5) Xử lý, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; (6) Chuyển nợ thành vốn góp.

Thứ tư, đẩy nhanh, dứt điểm tái cơ cấu tổ chức tín dụng. Việc tái cấu trúc hiện này còn rất chậm do nhiều thông tin như: thiếu thông tin, thanh tra Ngân hàng Nhà nước còn mỏng…

Thứ năm, thúc đẩy tái cơ cấu DNNN;

Thứ sáu, đẩy nhanh tái cơ cấu đầu tư công gồm cả việc xử lý nợ tồn đọng xây dựng cơ bản khoảng 93.000 tỷ đồng.

Thứ bảy, tăng cường cơ chế, công cụ phòng ngừa rủi ro trong tương lai.