Bền vững tài khóa: Nhìn từ các chỉ tiêu vĩ mô

TS. Vũ Nhữ Thăng

(Tài chính) Trong những năm qua, đảm bảo bền vững tài khóa là vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam trong quá trình hoạch định và xây dựng các kế hoạch, chiến lược phát triển trung và dài hạn. Bài viết này khái quát một số vấn đề đang được xem là cốt lõi nhất của bền vững tài khóa qua một số chỉ số kinh tế vĩ mô, đó là các vấn đề liên quan đến các chỉ số an toàn tài khóa (bội chi ngân sách, các hệ số an toàn nợ), cơ cấu và mức độ thu và chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam những năm gần đây, qua đó rút ra một số hàm ý chính sách để từng bước nâng cao tính bền vững tài khóa cho Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu của quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.

Bền vững tài khóa: Nhìn từ các chỉ tiêu vĩ mô
Ảnh minh họa. Nguồn:Internet
Khái quát bức tranh tài khóa Việt Nam

Trong hơn hai thập niên qua, hệ thống chính sách tài khóa của Việt Nam đã có những bước cải cách quan trọng, góp phần thay đổi căn bản nền tài chính công Việt Nam. Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý tài chính công tiếp tục được đổi mới trên nhiều phương diện, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực chung của thông lệ quốc tế, bao gồm cả chính sách thu ngân sách nhà nước (NSNN), chính sách quản lý chi NSNN, cơ chế tài chính đối với khu vực sự nghiệp công cũng như các vấn đề liên quan đến đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia. Qua đó, đã góp phần quan trọng trong huy động, phân bổ, sử dụng và quản lý có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phục vụ cho các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trên phương diện đáp ứng yêu cầu đảm bảo sự bền vững tài khóa, có thể đánh giá một số nét chính về kết quả cải cách nền tài chính công ở Việt Nam giai đoạn vừa qua như sau:

Thứ nhất, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ hệ thống thu ngân sách, qua đó góp phần động viên hợp lý các nguồn lực từ sản xuất và các nguồn lực từ tài nguyên, đất đai vào NSNN. Về cơ bản, quá trình cải cách thuế ở Việt Nam đã được tiến hành theo các phương thức phù hợp với các nguyên tắc về cải cách thuế được thừa nhận chung và với xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Trong đó, việc cải cách trong từng sắc thuế đã được tập trung vào mở rộng cơ sở tính thuế, từng bước giảm mức thuế suất và đơn giản hoá phương pháp tính thuế, kê khai và nộp thuế và tạo điều kiện cho người nộp thuế trong việc tuân thủ các nghĩa vụ về thuế.

Quy mô thu NSNN bình quân giai đoạn 2001-2010 đạt 26,6% GDP, trong đó thu ngân sách từ thuế, phí đạt 24,2% (bao gồm thu từ dầu thô). Đồng thời với sự mở rộng về quy mô, cơ cấu thu ngân sách cũng được cải thiện theo hướng tích cực hơn. Thu NSNN từ các sắc thuế gắn trực tiếp với sản xuất, kinh doanh trong nước như thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế giá trị gia tăng (GTGT) trong tổng thu ngân sách ngày càng tăng. Nhờ đó, thu nội địa trong tổng thu NSNN cũng đã tăng từ mức 50,7% năm 2001 lên mức 64,1% năm 2010 và năm 2011 là 63%.

Thứ hai, thu NSNN tăng đã tạo điều kiện mở rộng chi NSNN, qua đó góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, tăng chi cho công tác đảm bảo an sinh xã hội và xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời, cải cách về cơ chế, chính sách quản lý NSNN đã góp phần củng cố kỷ cương, kỷ luật tài chính; thực hiện phân cấp ngân sách ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và điều hành ngân sách của các cấp, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN. Chế độ công khai tài chính được cải thiện và triển khai thực hiện các cấp ngân sách. Trong thực hiện chi NSNN đã đảm bảo bố trí đủ nguồn lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước, phát huy được vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương cũng như sự chủ động của các địa phương trong việc khơi dậy các tiềm năng trên địa bàn. Tổng chi NSNN năm 2010 tăng 6,2 lần so với năm 2000. Quy mô tổng chi NSNN bình quân giai đoạn 2001- 2010 đạt 30,6% GDP.

Cơ cấu chi NSNN đã được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tăng chi cho con người, cho các nhiệm vụ về đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Nguồn vốn NSNN đã được tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng, giao thông, thủy lợi, các chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng. NSNN cũng đã được cơ cấu lại để tăng chi cho giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá thông tin, bảo vệ môi trường, đáp ứng được các mục tiêu đề ra theo các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội.

Thứ ba, công tác quản lý nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia cũng tiếp tục được đổi mới, nhất là việc ban hành và tổ chức thực hiện Luật Quản lý nợ công. Qua đó, đã hình thành một hành lang pháp lý cho công tác quản lý nhà nước đối với nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia, từng bước tiếp cận dần với các thông lệ tốt trên thế giới; đã chú trọng vào việc quản lý rủi ro, giám sát chi tiêu an toàn nợ, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Các chỉ số liên quan đến nợ công, nợ nước ngoài quốc gia tiếp tục được duy trì trong giới hạn an toàn. Đến hết năm 2011, dư nợ công tương đương 52,9% GDP, dự nợ Chính phủ bằng 41,9% GDP, nằm trong giới hạn về an toàn nợ đặt ra.

Bội chi NSNN sau một số năm tăng cao đã có sự cải thiện trong hai năm gần đây. Bội chi NSNN năm 2011 là 4,9% GDP, giảm đáng kể so với mức bình quân 5,2% của giai đoạn 2001-2010. Để hạn chế sự gia tăng của nợ công và từng bước mở rộng không gian tài khóa, kể từ năm 2010, Việt Nam đã chủ động thực hiện một số biện pháp để giảm dần mức bội chi ngân sách, theo đó, mức bội chi thực tế thực hiện đã được giữ ở mức thấp hơn so với mức mà Quốc hội cho phép khi xây dựng dự toán, trong đó có một số khoản tăng thu đã được ưu tiên sử dụng giảm bội chi ngân sách. Mức bội chi ngân sách năm 2010 và 2011 đã được duy trì ở mức thấp hơn mức Quốc hội cho phép khi thông qua dự toán NSNN.

Một số vấn đề đặt ra đối với yêu cầu đảm bảo bền vững tài khóa

Mặc dù Việt Nam đã đạt được những kết quả khích lệ trong quá trình thực hiện cải cách hệ thống tài khóa của mình nhưng diễn biến bức tranh tài khóa thời gian qua cho thấy Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những rủi ro tài khóa nhất định, nhất là khi nhìn nhận từ giác độ bền vững tài khóa trong trung và dài hạn. Những vấn đề nổi lên là:

Một là, bội chi ngân sách đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong 10 năm qua, ngay cả trong những năm có tốc độ tăng thu cao. Bội chi ngân sách tại một thời điểm có thể là cần thiết để giúp nền kinh tế có thể đối phó được với biến động bất lợi đối với nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn nhu cầu tiêu dùng và đầu tư của khu vực tư nhân sụt giảm. Tuy nhiên, kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy bội chi ngân sách kéo dài thường tiềm ẩn các nguy cơ gây bất ổn vĩ mô, nhất là vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính. Ở Việt Nam, trong hai năm 2010 - 2011, tỷ lệ bội chi NSNN tuy có giảm đáng kể so với mức đỉnh của năm 2009, song vẫn còn ở mức cao. Kéo dài tình trạng bội chi NSNN sẽ đặt công tác quản lý, điều hành chính sách ngân sách trước một số khó khăn do “không gian tài khóa” bị thu hẹp.

Hai là, sự tăng nhanh của nợ Chính phủ và nợ công sẽ là điều không thể tránh khỏi khi bội chi ngân sách kéo dài và ở mức cao. Về bản chất, nợ Chính phủ chính là sự cộng dồn của bội chi ngân sách qua các năm (trừ khi có việc phát hành tiền hoặc bán tài sản quốc gia để bù đắp cho bội chi ngân sách). Nợ công nếu mức cao sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn cho nền kinh tế. Đồng thời, khi mức dư nợ công ở mức cao thì việc huy động vốn của Chính phủ sẽ trở nên khó khăn hơn và có chi phí đắt hơn. Đối với Việt Nam, các hệ số về nợ công đang được cho là trong giới hạn an toàn theo các chỉ tiêu về an toàn nợ của thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc quản lý nợ công hiệu quả và an toàn không chỉ giới hạn duy trì mức nợ công trong phạm vi các chỉ số an toàn nợ. Các chỉ số như tỷ lệ nợ công trên GDP là những thước đo cần thiết để biết những thay đổi về nợ công, nợ quốc gia và gánh nặng nợ và chỉ có ý nghĩa trong hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia và từng giai đoạn nhất định. Các chỉ số này không phản ánh hết các rủi ro liên quan đến quản lý như rủi ro thanh toán hay rủi ro hoạt động. Điều quan trọng là phải đánh giá được mức độ rủi ro trong mỗi tỷ lệ nợ công để có biện pháp đối phó thích hợp. ...

Ba là, khó khăn trong việc duy trì mức độ động viên NSNN như giai đoạn 5 năm vừa qua. Trong những năm qua là thu NSNN có tốc độ tăng trưởng khá và được mở rộng, qua đó tạo điều kiện cho việc thực hiện tăng chi NSNN. Tổng chi NSNN đã tăng từ 26,5% GDP năm 2001 lên 32,8% GDP năm 2010. Theo đó, thách thức đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào Việt Nam có thể tiếp tục đảm bảo được mức huy động nguồn thu cho NSNN, qua đó đảm bảo duy trì được mức chi NSNN như thời gian qua mà không kéo theo sự gia tăng quá mức về bội chi NSNN.

Bốn là, trong khi quy mô thu NSNN khó có thể duy trì ở mức như thời gian qua nhưng áp lực tăng chi ngân sách vẫn có xu hướng tăng, nhất là đối với yêu cầu chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi cho đảm bảo an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo, trong khi đó hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực NSNN vẫn còn một số hạn chế. Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam tiếp tục là một yêu cầu cấp bách trong những năm tới và là tiền đề quan trọng cho việc tái cơ cấu nền kinh tế. Việc đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đã được đặt ra song nhu cầu đầu tư từ NSNN vẫn sẽ là khá lớn vì thực tế không phải tất cả các lĩnh vực về phát triển hạ tầng khu vực tư nhân đều có thể tham gia. Bên cạnh đó, nhu cầu tăng chi thường xuyên những năm tới dự báo sẽ tiếp tục gia tăng nhất là khi vấn đề cải cách tiền lương khu vực hành chính, sự nghiệp đang được tiếp tục đặt ra. Thực tế, trong những năm qua chi thường xuyên của Việt Nam cũng đã liên tục tăng mạnh.

Ngoài những vấn đề phân tích trên thì những yếu kém trong cơ chế quản lý cũng đang gây ra một số rào cản đối với việc cơ cấu lại chi NSNN, qua đó từng bước giảm dần bội chi. Cơ chế quản lý tài chính công hiện nay còn nhiều bất cập. Hiệu quả quản lý thu chi ngân sách còn hạn chế và chậm được cải thiện. Vấn đề công khai sử dụng và quản lý ngân sách tuy đã được đặt ra song thiếu các chế tài để đảm bảo việc tuân thủ thực hiện nên hiệu quả trên thực tế chưa cao.

Năm là, thách thức về đảm bảo quy mô huy động nguồn lực cho NSNN ở Việt Nam sẽ là lớn hơn nếu như nhìn nhận từ cơ cấu động viên NSNN hiện nay của Việt Nam. Tuy có giảm về mức độ, song thu NSNN Việt Nam vẫn đang còn phụ thuộc đáng kể vào các khoản thu “không thường xuyên” như từ dầu thô, giao quyền sử dụng đất và việc bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước Những nguồn thu này thường không ổn định, có thể là rất cao trong giai đoạn hiện tại nhưng lại có xu hướng giảm trong dài hạn. Thu từ thuế nhập khẩu cũng sẽ giảm xuống khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết cắt giảm thuế quan trong quá trình tham gia các Hiệp định thành lập các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.

Sáu là, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một mâu thuẫn căn bản khác, đó là giữa đòi hỏi giảm dần mức độ động viên NSNN để khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn cho đầu tư phát triển và yêu cầu đảm bảo nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chi NSNN. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 được Quốc hội khóa 13 thông qua cuối năm 2011 đã đặt ra yêu cầu giảm tỷ lệ động viên NSNN từ thuế, phí xuống dưới 22 - 23% GDP. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 cũng đặt yêu cầu là giảm dần mức bội chi NSNN xuống dưới 4,5% GDP vào năm 2015 (tính cả nguồn TPCP). Tuy nhiên, nếu thực hiện theo các mục tiêu về giảm mức động viên ngân sách và giảm bội chi ngân sách thì quy mô chi NSNN cũng đồng thời sẽ phải giảm xuống. Song, như đề cập ở trên việc giảm quy mô chi NSNN luôn là vấn đề nhạy cảm và khó khăn. Đối với quốc gia có quy mô chi thường xuyên lớn như Việt Nam thì việc cắt giảm chi ngân sách lại càng khó khăn hơn. Khác với chi đầu tư phát triển là khoản chi mà có thể cắt giảm theo chính sách của Chính phủ, việc cắt giảm chi thường xuyên ở đâu và bao giờ cũng trở nên khó khăn hơn và thường phải đối mặt với nhiều phản ứng tiêu cực từ phía người dân. Thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy việc cắt giảm chi ngân sách, nhất là chi thường xuyên là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp và có thể gây ra các tác động bất lợi đối với sự ổn định về kinh tế - xã hội. Đó còn chưa tính đến yếu tố dự báo trong giai đoạn tới, nhu cầu tăng chi ngân sách để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực hiện cải cách tiền lương, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói - giảm nghèo ngày càng cao.

Một số hàm ý chính sách để tăng cường bền vững tài khóa Việt Nam thời gian tới

Yêu cầu đảm bảo sự bền vững tài khóa cũng được đặt ra trong Chiến lược phát triển tài chính đến năm 2020 cũng như các chiến lược phát triển Ngành có liên quan trong lĩnh vực tài chính. Về mục tiêu phát triển dài hạn, Chiến lược tài chính đến năm 2020 xác định: “xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; huy động, quản lý, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng; thực hiện cải cách hành chính; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát tài chính”,

Để đáp ứng yêu cầu của tái cơ cấu kinh tế, đảm bảo sự bền vững về tài khóa theo các mục tiêu và nhiệm vụ xác định, trong Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Chiến lược tài chính đến năm 2020, hệ thống cơ chế, chính sách tài chính thời gian tới cần được đổi mới theo các giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính để đảm bảo nguồn lực phục vụ yêu cầu tái cơ cấu kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện thể chế tài chính phù hợp với quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển, chú trọng đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, Đẩy mạnh thu hút dòng vốn tư nhân, vốn FDI thông qua công tác rà soát, xây dựng có chất lượng các qui hoạch phát triển ngành, vùng, qua thiết lập khung khổ pháp lý để khuyến khích các nhà đầu tư thông qua các cơ chế như cơ chế hợp tác công tư (PPP), xã hội hóa việc huy động nguồn vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng.

Đồng thời, cần nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cùng với đó là hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tài chính để khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đầu tư của ngân sách nhà nước cần hướng đến đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu có tác dụng làm hạt nhân thu hút các dòng vốn đầu tư khác. Sử dụng vốn đầu tư của NSNN có trọng tâm, trọng điểm và đóng vai trò như một vốn mồi, tạo lập các điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của tư nhân vào các dự án hạ tầng thiết yếu. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, cần lựa chọn các ưu tiên chiến lược để bố trí nguồn lực thực hiện trên cơ sở gắn với các mục tiêu và định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, cải cách căn bản phương thức quản lý nguồn lực NSNN, cụ thể như sau:

Hoàn thiện cơ chế phân cấp, đảm bảo sự hài hòa về tài chính theo chiều dọc và chiều ngang. Đồng thời có cơ chế để tăng cường công tác phân cấp, tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan đơn vị trong việc sử dụng nguồn lực được giao cùng với việc đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả các cơ chế giám sát đi kèm.

Đổi mới quy trình xây dựng và lập dự toán và phân bổ NSNN trên cơ sở các nguyên tắc thúc đẩy việc phân cấp và trách nhiệm giải trình của các cấp ngân sách, các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nghiên cứu xây dựng và thực hiện có lộ trình quá trình chuyển đổi phương thức quản lý ngân sách từ kiểm soát đầu vào sang quản lý gắn với kết quả đầu ra.

Nghiên cứu xây dựng và triển khai xây dựng khuôn khổ ngân sách trung hạn, tính đến yếu tố chu kỳ trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Việc xây dựng ngân sách trên cơ sở trung hạn sẽ đảm bảo việc phân bổ ngân sách được gắn với các chiến lược và định hướng phát triển trong từng thời kỳ, góp phần đảm bảo tính bền vững của ngân sách, phản ánh được thứ tự ưu tiên trong phân bổ nguồn lực NSNN trong trung hạn đối với từng ngành, lĩnh vực, hạn chế được việc phân bổ nguồn lực dàn trải, phân tán.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế trên cơ sở xây dựng một hệ thông thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, phù hợp với thông lệ quốc tế và có khả năng huy động đầy đủ, chủ động, hợp lý nguồn thu cho NSNN; đổi mới cơ cấu thu NSNN trên cơ sở đảm bảo cơ cấu cân đối hợp lý giữa thuế gián thu, trực thu; khai thác có hiệu quả các nguồn thu từ đất đai và tài nguyên, đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế và các lợi ích về xã hội, môi trường.

Để hình thành cơ cấu thu NSNN bền vững cần sử dụng hiệu quả ưu thế và vai trò của thuế trong sự kết hợp chặt chẽ với các đòn bẩy tài chính khác để đạt đồng thời nhiều mục tiêu: thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế thông qua sử dụng vai trò điều chỉnh và định hướng đầu tư và sản xuất xã hội; doanh nghiệp tích lũy và đầu tư chiều sâu... Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này cần nghiên cứu, nắm vững ưu thế của từng loại thuế để có sự điều chỉnh thích hợp. Kinh nghiệm cải cách chính sách thuế trên thế giới cho thấy xu hướng điều chỉnh chính sách thu ngân sách của các quốc gia đó là giảm dần thuế suất và mở rộng cơ sở tính thuế đối với thuế Thu nhập cá nhân và thuế Thu nhập doanh nghiệp, tăng cường vai trò của thuế tiêu dùng; điều chỉnh chính sách tài khóa cho tăng trưởng xanh, thuế xanh;

Bốn là, tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro và bảo đảm an toàn nợ quốc gia, thực hiện giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các công cụ quản lý nợ, đặc biệt là chiến lược nợ, chương trình quản lý nợ trung hạn. Tiếp tục duy trì các chỉ số nợ đến mức an toàn theo các chỉ tiêu quy định và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chú trọng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ. Thực hiện giảm dần bội chi ngân sách nhà nước, phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ bội chi NSNN giảm xuống dưới 4,5% GDP (bao gồm cả trái phiếu Chính phủ).

Năm là, cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm giải trình để xác định trách nhiệm giải trình của từng cá nhân, tổ chức trong việc sử dụng nguồn lực ngân sách. Có thực hiện minh bạch thì mới xác định rõ được trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong quản lý nguồn lực công. Đồng thời, đổi mới hình thức công khai ngân sách cần đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu.

Bên cạnh đó, cần thực hiện đổi mới hệ thống báo cáo tài khóa phù hợp với thông lệ và thực hành quốc tế, ví dụ theo các tiêu chuẩn Thống kê tài chính Chính phủ của IMF. Thực tế hiện nay một số tiêu chí thống kê về tài khóa của Việt Nam còn có sự khác biệt so với thông lệ và thực hành quốc tế, có một số khoản chi còn để ngoài cân đối, ví dụ đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ, thống kê về các khoản vay về cho vay lại hay là khoản thu xổ số kiến thiết, thu từ nguồn học phí, viện phí.

Tóm lại, để đảm bảo sự bền vững tài khóa trong trung và dài hạn cần nâng cao hiệu quả huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia thông qua việc tiếp tục hoàn thiện thể chế tài chính phù hợp với quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính gắn với quá trình tái cơ cấu nền tài chính quốc gia. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro và bảo đảm an toàn nợ quốc gia, thực hiện giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách để từng bước mở rộng không gian tài khóa.