Các giải pháp đảm bảo an toàn nợ công

PV.

(Tài chính) Các công cụ điều hành chính sách quản lý nợ công, gồm chiến lược, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch chi tiết hàng năm và hệ thống chỉ tiêu an toàn nợ, đã được chủ động nghiên cứu, xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt là các mục tiêu chủ đạo để làm căn cứ tổ chức huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công trong giới hạn an toàn theo từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Các giải pháp đảm bảo an toàn nợ công
Để giám sát và quản lý nợ công hiệu quả cần tổ chức thực hiện tốt các nhóm giải pháp đồng bộ. Nguồn: internet

Để giám sát và quản lý nợ công hiệu quả cần tổ chức thực hiện tốt các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công, bao gồm:

Một là, tập trung quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới (gồm vay của Chính phủ, vay được Chính phủ bảo lãnh và vay của chính quyền địa phương), đảm bảo trong giới hạn cho phép và an toàn tài chính quốc gia; tập trung cho đầu tư phát triển, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch. - Khắc phục ngay tình trạng chỉ tập vào huy động vốn vay, mở rộng diện sử dụng, đầu tư dàn trải. Cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay theo hướng: rà soát lại các dự án đang triển khai, cơ cấu lại nguồn vốn, loại bỏ dự án không hiệu quả, phân kỳ đầu tư để tập trung vốn cho các dự án cần đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào khai thác nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.

- Xác định rõ danh mục chương trình, dự án sử dụng vốn vay công mới trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020, sắp xếp ưu tiên và đề xuất cơ chế tài chính cấp phát/cho vay lại ngay từ khi phê duyệt chủ trương đầu tư để đánh giá tác động lên nợ công, thẩm định chặt chẽ khả năng trả nợ và đảm bảo trong giới hạn nợ công, nợ Chính phủ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giữ mức trần nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP và khống chế nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25%.

- Tổ chức thực hiện tốt quy trình của dự án đầu tư, nhất là các khâu chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt quy hoạch, kế hoạch, quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, dự toán công trình, lựa chọn nhà thầu, quản lý tiến độ và chất lượng công trình; hạn chế tối đa việc điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư bằng nguồn vốn vay để đảm bảo khả năng trả nợ, tính bền vững của dự án và hạn chế sự gia tăng nợ công.

Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, đảm bảo hiệu quả và theo đúng quy định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của các chủ dự án, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của các Bộ, ngành, địa phương. Chú trọng hơn nữa công tác thanh tra, kiểm toán việc lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ và sử dụng nguồn vốn vay nợ công, đặc biệt là việc điều chỉnh tổng mức đầu tư, bố trí vốn chủ sở hữu, tình hình sử dụng vốn vay, thu hồi và trả nợ công. Ngoài ra, các đơn vị sử dụng nợ công phải thực hiện báo cáo đúng thời gian quy định về tình hình thực hiện, rút vốn, trả nợ và dư nợ vay; cung cấp số liệu và trao đổi thông tin kịp thời để có kế hoạch phối hợp chặt chẽ trong việc xử lý vướng mắc, kiến nghị giải pháp tăng cường hiệu quả đầu tư.

Ba là, khẩn trương cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng nhanh tỷ trọng vay dài hạn với lãi suất thấp. Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nợ công, giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và chi phí vay vốn. Tập trung triển khai thực hiện các phương án tái cơ cấu nợ chính phủ, các khoản vay lại/bảo lãnh chính phủ đang gặp khó khăn. Nghiên cứu, xây dựng và triển khai các phương án xử lý rủi ro về nợ công, tái cơ cấu nợ Chính phủ, để đảm bảo an toàn về nợ và an ninh tài chính quốc gia. Rà soát các khoản chi ngân sách, nhất là các khoản chi đầu tư, tiền lương, phụ cấp, an sinh xã hội, chương trình mục tiêu quốc gia để loại bỏ trùng lặp nhằm nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước; chủ động, ưu tiên bố trí trong cân đối ngân sách nhà nước và phần vượt thu theo dự toán hàng năm để trả nợ; triển khai xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách trung hạn để phân bổ, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ngân sách nhà nước.

Bốn là, kiểm soát chặt chẽ việc bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và thu đủ nợ đối với các khoản vay về cho vay lại.

- Thực hiện điều chỉnh giảm bảo lãnh Chính phủ, thắt chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện, chọn lọc có mục tiêu ưu tiên và tiến tới thu hẹp, chuyển dần sang kênh bảo lãnh của các ngân hàng thương mại theo cơ chế thị trường. 

- Tăng cường cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp/nhà đầu tư, giữa Chính phủ và chính quyền địa phương; tăng cơ chế cho vay lại và giảm dần cơ chế ngân sách nhà nước cấp phát, kể cả trường hợp cho vay lại chính quyền địa phương; đẩy mạnh phương thức cho vay lại theo hạn mức tín dụng thông qua các ngân hàng thương mại nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan cho vay lại và người vay lại, qua đó các ngân hàng thương mại được chủ động thẩm định, quyết định cho vay và tự chịu rủi ro tín dụng đối với các dự án cụ thể từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ.

- Sử dụng nguồn vốn cho vay lại có chọn lọc, tránh dàn trải, tập trung cho các công trình, chương trình, dự án ưu tiên cao; tiếp tục chú trọng vào tiêu chí hiệu quả, quy mô, thời điểm đầu tư phù hợp tiến độ dự án, khả năng huy động vốn và trả nợ của chủ đầu tư.

- Nâng cao trách nhiệm của các chủ dự án vay lại trong quản lý nguồn vốn, sử dụng có hiệu quả tài sản hình thành từ vốn vay; các chủ dự án là các Tập đoàn, Tổng công ty lớn đang có tình trạng đầu tư dàn trải cần sớm thực hiện dứt điểm việc tái cơ cấu tài chính, thoái vốn khỏi các hoạt động ngoài ngành nghề kinh doanh chính, ưu tiên sử dụng nguồn thu hồi từ thoái vốn để xử lý nợ.

Năm là, bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước trong giới hạn theo quy định và sử dụng quỹ tích lũy trả nợ để trả nợ đúng hạn.

- Bố trí hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước để trả nợ theo hướng thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách phải đạt yêu cầu của Quốc hội, phấn đấu tăng thu 12%-14%/năm, dành khoảng 20% tổng thu ngân sách nhà nước để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, các khoản vay bù đắp bội chi cơ bản chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển và thực hiện quản lý, sử dụng hiệu quả, giải ngân đúng tiến độ, đúng quy định.

- Tổng hợp đầy đủ các khoản giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ sử dụng cấp phát cho đầu tư xây dựng cơ bản trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm để phản ánh đúng thực tế giải ngân, đảm bảo mức bội chi ngân sách nhà nước đã được Quốc hội quyết định.

- Cơ bản không vay thương mại nước ngoài, lãi suất cao, thời gian ngắn để sử dụng cho cân đối ngân sách nhà nước. Bội chi ngân sách nhà nước giảm dần, trong đó đến năm 2020 giảm xuống 4% GDP (tính cả TPCP). Trong quá trình thực hiện, trường hợp có tăng thu ngân sách, cố gắng ưu tiên bố trí ngân sách để trả nợ nhằm giảm bội chi, qua đó giảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, bố trí dự toán và điều hành quản lý chi ngân sách chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính.

- Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, quyết liệt chống thất thu NSNN để thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tạo nguồn thu ngân sách nhà nước ổn định và bền vững.

Sáu là, rà soát, hoàn thiện thể chế, sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý nợ công, Chiến lược và chương trình quản lý nợ trung hạn trên cơ sở đó xây dựng, triển khai và giám sát nợ công theo các chương trình quản lý nợ trung hạn, có tính đến xu hướng giảm dần huy động vốn ODA, tiến tới tăng vay ưu đãi và vay thương mại nhằm thực hiện tốt các mục tiêu quản lý nợ công, đó là: huy động vốn vay với chi phí và mức độ rủi ro phù hợp, đáp ứng nhu cầu cân đối ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ; phân bổ, sử dụng vốn vay phải đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ; và duy trì các chỉ số nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia ở mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.