Cần thả nổi có kiểm soát chứ không phải phá giá

Theo Sài Gòn Tiếp thị

Việc Ngân hàng nhà nước (NHNN) tiếp tục đỡ VND ở mức cố định như hiện tại tạo ra tín hiệu sai cho thị trường. Thị trường có thể nghĩ rằng NHNN đang kìm giữ tỷ giá cố định thay vì đang đỡ, ngăn không cho đồng nội tệ mạnh lên.

Cần thả nổi có kiểm soát chứ không phải phá giá
Ảnh minh họa. Nguồn:Internet

Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam đang khởi động sau một năm chuẩn bị. Với tình trạng nợ xấu tại các tổ chức tín dụng ở mức tương đối cao, ít nhất là 8,8% như NHNN công bố, tình trạng nợ đọng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau, tình trạng đóng băng thị trường bất động sản, tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công cao, tình trạng lạm phát vẫn chưa thực sự ổn định thì Việt Nam không thể trông cậy vào bất kỳ nguồn vốn nào ở trong nước để có thể vừa chuyển đổi được cơ cấu nền kinh tế vừa duy trì được ổn định vĩ mô. Nguồn tiết kiệm trong dân không thể đủ để giải quyết được nợ xấu và duy trì được mức đầu tư cần thiết để đảm bảo tăng trưởng; không thể trông cậy vào ngân sách nhà nước vì sẽ dẫn tới nợ công cao; và không thể in tiền để giải quyết vấn đề vì sẽ dẫn đến lạm phát.

Kỳ vọng VND mạnh lên

Như vậy, nguồn vốn khả dĩ duy nhất để đảm bảo cho sự thành công của quá trình tái cơ cấu kinh tế tại Việt Nam lúc này là dòng vốn đầu tư nước ngoài (Vì Chính phủ Việt Nam không có ý định theo đuổi giải pháp vay nợ các định chế tài chính quốc tế). Nếu thu hút được đầu tư nước ngoài vào quá trình mua bán nợ xấu, vào việc mua bất động sản và vào việc mua cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế sẽ được đảm bảo.

Nhưng việc thu hút một lượng lớn đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải có một kỳ vọng vững chắc về sự ổn định của đồng nội tệ của Việt Nam, thậm chí là sự tăng giá của VND. Việc đồng nội tệ không bị mất giá sẽ là một đảm bảo chắc chắn về việc không bị thiệt hại khi nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển tiền về nước. Khi có được niềm tin đó, nhà đầu tư nước ngoài mới sẵn sàng giải ngân. Chừng nào họ còn hoài nghi về điều này thì họ sẽ còn chờ đợi đến khi nước chủ nhà phá giá xong đồng nội tệ họ mới giải ngân.

Có hai lý do cho sự kỳ vọng này trở thành hiện thực. Thứ nhất khi dòng ngoại tệ vào nhiều thì đồng nội tệ sẽ tăng giá trong ngắn hạn. Nếu nhờ có dòng vốn đầu tư nước ngoài mà Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao trong trung và dài hạn, và nếu như NHNN thành công trong việc duy trì lạm phát ở mức thấp (như dưới 5% trong dài hạn), thì VND cũng sẽ tăng giá.

Đây là cơ sở lý thuyết để giải thích tại sao các nước đang phát triển khi nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng thường trước tiên sẽ phải phá giá đồng nội tệ. Tiếp đến là ổn định kinh tế vĩ mô. Và cuối cùng là tái cơ cấu nền kinh tế. Có thể nói Việt Nam đã tiến hành được hai bước đầu tiên trong tiến trình này và đang bước vào giai đoạn thứ ba. Cụ thể, Việt Nam đã chủ động thực hiện việc phá giá đồng tiền của mình ba lần vào các năm: cuối 2008 (3%), cuối 2009 (5,4%), và cuối 2011 (9,3%). Và, từ giữa 2011 cho tới nay, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, kéo lạm phát về mức dưới 7%.

Những điều kiện về kinh tế vĩ mô trong năm 2012 như lạm phát và cán cân thương mại cho thấy tỷ giá USD/VND đã ở trạng thái cân bằng để khởi đầu cho tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế mà không cần phải phá giá tiếp. Cán cân thương mại bắt đầu xuất siêu trong cả năm 2012 và những tháng đầu năm 2013 minh chứng cho điều này.

Như vậy, nếu như quá trình tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam thực sự diễn ra trong năm 2013, và Việt Nam có các chính sách kiềm chế lạm phát và chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài để đảm bảo thành công cho quá trình này, thì VND sẽ có xu hướng mạnh lên trong năm 2013 và Việt Nam hoàn toàn không cần phải cân nhắc đến việc phá giá VND.

Chính sách tỷ giá năm 2013: nên thả nổi có kiểm soát

Vấn đề tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế là làm sao để xử lý được dòng ngoại hối đổ vào Việt Nam đầu tư mà không gây ra các hiệu ứng phụ, đặc biệt là lạm phát. Khi dòng vốn nước ngoài vào dồn dập trong một thời gian ngắn, NHNN có thể sẽ phải bơm mạnh tiền đồng ra để mua lại ngoại tệ nhằm ngăn VND tăng giá quá nhanh. Đây là điều mà NHNN đã làm trong thời gian qua giúp cho dự trữ ngoại hối tăng thêm 18 tỉ USD trong năm 2012. Và để ngăn ngừa lạm phát, NHNN đã phải phát hành tín phiếu để trung hoà dòng tiền này. Trong năm 2013, NHNN có thể phải dùng đến công cụ tăng dự trữ bắt buộc nếu như tiền đồng bị bơm ra nhiều quá.

Việc NHNN tiếp tục đỡ VND ở mức cố định như hiện tại tạo ra tín hiệu sai cho thị trường. Thị trường có thể nghĩ rằng NHNN đang kìm giữ tỷ giá cố định thay vì đang đỡ, ngăn không cho đồng nội tệ mạnh lên. Ngoài ra, việc tiếp tục mua vào ngoại tệ trong một thời gian ngắn sẽ tạo ra gánh nặng cho chính sách điều hành lãi suất (điều chỉnh cung tiền) để đảm bảo ổn định vĩ mô.

Vì vậy, dựa trên biến động dòng ngoại hối theo mùa vụ từ năm 2006 tới nay, NHNN hãy để cho VND mạnh lên trong ít nhất là nửa đầu năm 2013 và có thể sau đó để VND yếu hơn đi vào giai đoạn cuối năm. Việc để tỷ giá biến động như vậy thể hiện cam kết của NHNN chuyển việc điều hành chính sách tỷ giá theo hướng thả nổi có kiểm soát (biên độ +/-3%), tránh việc hiểu nhầm rằng NHNN theo đuổi chính sách tỷ giá cố định.

Tỷ giá chưa chịu nhiều sức ép

Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính và lãnh đạo một số ngân hàng, lãi suất chính sách của ngân hàng Nhà nước cũng như lãi suất tín dụng được dự báo có thể ổn định trong sáu tháng đầu năm 2013. Trong bối cảnh cán cân tổng thể vẫn có xu hướng thặng dư, tỷ giá cũng được dự báo tiếp tục ổn định trong tương lai gần.

Theo ông Lê Xuân Nghĩa, nguyên phó chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia, cán cân tổng thể năm 2012 đạt mức thặng dư khá lớn, khoảng 10 tỉ USD – là mức thặng dư lớn nhất kể từ năm 2007 – chủ yếu là do thặng dư cán cân vãng lai và cán cân vốn. Cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường tiền tệ, thị trường dư thừa VND và cầu USD yếu hơn mọi năm tạo điều kiện để cải thiện dự trữ ngoại hối – hiện đang đứng ở mức xấp xỉ 10 – 13 tuần nhập khẩu, khá sát với ngưỡng an toàn tối thiểu 14 – 15 tuần được đề nghị bởi tổ chức tài chính quốc tế IMF. Chỉ riêng trong tháng 1.2013, vốn đầu tư giải ngân trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 420 triệu USD; cán cân thương mại xuất siêu ở mức 200 triệu USD; lượng kiều hối tăng cao… “Như vậy, về cơ bản, tỷ giá hối đoái chưa có nhiều sức ép tăng lên trong tương lai gần”, ông Nghĩa nói.

Việc lãi suất chính sách của ngân hàng Nhà nước và lãi suất tín dụng liên tục giảm trong năm 2012, được xem là một trong những yếu tố tác động đến tâm lý đầu tư, song theo tổng giám đốc ngân hàng Eximbank Trương Văn Phước, mức tác động chưa đủ lớn để người dân đổ sang mua USD đẩy cầu USD tăng đột biến. Về phía các doanh nghiệp, sản xuất trong nước vẫn hồi phục chậm, nhu cầu tiêu dùng thấp và chững lại sau tết Nguyên đán nên nhu cầu mua USD để nhập khẩu vẫn rất dè dặt. Thực tế cho thấy, từ giữa tháng 2 đến nay, Eximbank tăng cường bán USD ra thị trường, song lượng mua không lớn.