Con số nợ công của Việt Nam

PV.

Sau khi Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội Tờ trình dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) sáng 25/5/2017, dư luận đã rất quan tâm đến các chỉ số nợ công của nước ta vừa được công bố.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.

Theo đó, những con số thống kê cụ thể về tình hình nợ công của Việt Nam được Bộ trưởng Bộ Tài chính công bố thể hiện cụ thể, rõ ràng, minh bạch về quản lý nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2009. Một số kết quả cụ thể như sau:

- Tổ chức huy động vốn vay của Chính phủ cho ngân sách nhà nước (NSNN) và cho đầu tư phát triển, trong đó: huy động vốn trong nước qua phát hành trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2010-2016 đạt hơn 1.277 nghìn tỷ đồng (tốc độ tăng bình quân 36%/năm), đảm bảo cân đối ngân sách và nguồn vốn cho đầu tư nhiều công trình kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục.

- Huy động được khối lượng lớn nguồn vốn ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài; giai đoạn 2010-2016, tổng trị giá cam kết ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD, trong đó đã giải ngân đạt gần 32,8 tỷ USD để tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo.

- Cấp bảo lãnh để hỗ trợ các doanh nghiệp, ngân hàng chính sách tiếp cận được với các nguồn vốn vay dài hạn trong và ngoài nước thực hiện chương trình, dự án trọng điểm, cấp bách, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Giai đoạn 2010-2016, tổng trị giá cấp bảo lãnh Chính phủ đạt 632,8 nghìn tỷ đồng. 

- Tạo điều kiện cho chính quyền địa phương huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ. Tổng trị giá vay nợ của chính quyền địa phương giai đoạn 2010-2016 đạt trên 139 nghìn tỷ đồng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

- Luật Quản lý nợ công đã tạo điều kiện để tăng cường công tác quản lý nợ chặt chẽ, đảm bảo trả nợ trong và ngoài nước của Chính phủ đầy đủ, đúng hạn; nợ công được đảm bảo trong giới hạn an toàn được Quốc hội phê duyệt. Đến cuối năm 2016, ước tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 63,7% GDP, nợ của Chính phủ ở mức 52,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 44,3% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 14,8% tổng thu NSNN. Công tác công khai, minh bạch thông tin về nợ công và quản lý nợ công từng bước đi vào nề nếp và được cải thiện. 

- Công tác quản lý nợ công cũng bộc lộ một số bất cập chủ yếu, trong đó nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ. Chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ (trong đó vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đến cuối năm 2015 so với cuối năm 2001 đã tăng 6,5 lần, tập trung vào 3 nhà tài trợ chính: Ngân hàng Thế giới tăng 11,5 lần (274,2 nghìn tỷ đồng/23,9 nghìn tỷ đồng); Ngân hàng Phát triển Châu Á tăng 20,3 lần (151,1 nghìn tỷ đồng/7,5 nghìn tỷ đồng); Nhật Bản tăng 6,8 lần (243,9 nghìn tỷ đồng/35,9 nghìn tỷ đồng).