Đặc thù của đại học công lập ngành Y và những thuận lợi, khó khăn trong cơ chế tự chủ

TS. Lê Văn Dụng – Đại học Y Hà Nội

Bài viết phân tích những đặc thù của các trường đại học công lập ngành Y và xu hướng tự chủ đại học nói chung, đại học ngành Y nói riêng. Với những đặc thù riêng, các trường đại học ngành Y khi thực hiện cơ chế tự chủ sẽ có nhiều thuận lợi, tuy nhiên cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế. Thông qua bài viết, một số khuyết nghị được đề xuất đối với Chính phủ và các trường đại học ngành Y để hoàn thiện cơ chế tự chủ đối với trường đại học này theo hướng nâng cao năng lực, sẵn sàng thực hiện tự chủ phù hợp với xu hướng phát triển mới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Đặc thù trong đào tạo của các trường đại học công lập ngành Y

Các trường đại học công lập ngành Y ngoài các chức năng đào tạo, nghiên cứu khoa học như các trường đại học khác, còn có chức năng trực tiếp tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trong đào tạo, quản trị tài chính, các trường đại học này cũng có những đặc thù riêng so với các trường đại học công lập các ngành khác. Cụ thể:

Thời gian đào tạo dài hơn các ngành khác: Thông thường, các trường đại học có thời gian đào tạo từ 3 đến 5 năm; tuy nhiên trong đào tạo đại học ngành Y, hệ bác sỹ có thời gian đào tạo tối thiểu là 6 năm, bác sĩ nội trú phải học thêm 3 năm sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra, để trở thành một bác sỹ giỏi, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân, các bác sĩ còn phải học tập không ngừng tại các trường đại học, tại các cơ sở khám chữa bệnh.

Mặt khác, công cuộc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe con người không dừng lại ở một quốc gia mà mang tính toàn cầu, do đó, người làm ngành Y phải thường xuyên học tập để cập nhật, nâng cao kiến thức, mang lại hiệu quả điều trị cao nhất cho người bệnh.

Chi phí đào tạo đại học cao hơn các ngành khác: Chi phí đào tạo đại học được xem xét trên nhiều góc độ: Chi phí của người học; chi phí của cơ sở đào tạo; chi phí của xã hội; chi phí của Nhà nước. Với các đặc thù của các trường đại học ngành Y, chỉ tiêu đào tạo hàng năm thấp hơn nhiều so với các trường đại học ngành khác trong khi chi phí biến đổi và chi phí cố định cho đào tạo ngành Y lại tăng (đặc biệt là hai yếu tố thời gian đào tạo dài và chi phí đầu tư máy móc thiết bị, cơ sở thực tập, thực hành lớn, cùng với chi phí vật tư, hóa chất nhiều) đã làm tăng chi phí đào tạo của đại học ngành Y cao hơn các ngành khác.

Thực tế trên đã được Chính phủ quan tâm trong việc ban hành các chính sách liên quan đến vấn đề học phí. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ số 593/TTr-BGDĐT (ngày 13/7/2015) thì chi phí đào tạo tính đủ chi phí trong năm 2021. Mặc dù, chi phí đào tạo đại học ngành Y ở Việt Nam cũng đã cao hơn các ngành khác, tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì chi phí này còn rất thấp.

Đào tạo ngành Y gắn liền với bệnh viện: Các trường đại học y khoa ở mọi đất nước đều được xây dựng trên nền tảng bệnh viện mà phải là bệnh viện đa chuyên khoa, có tầm kiểm soát bệnh tật rộng lớn. Ở Việt Nam, trước khi có Trường Y khoa Đông Dương (năm 1902) đã có nhà thương Bạch Mai, nhà thương Phủ Doãn, nhà thương Đồn Thủy. Khi có các nhà thương, chính quyền thực dân Pháp đã cho mở Trường Y khoa Đông Dương, với 100% giảng viên là các giáo sư Y khoa giỏi, trẻ từ Pháp sang xây dựng trường, giảng dạy và thực hành y khoa tại các bệnh viện.

Từ đó đến nay, mối quan hệ Viện – Trường đang được các trường đào tạo ngành Y và các bệnh viện tăng cường xây dựng ngày càng gắn bó thân thiết. Hiện nay, các bộ môn lâm sàng của nhà trường đều ở tại bệnh viện, gắn liền với các khoa của bệnh viện và làm việc như các bác sỹ của bệnh viện; nhiều bác sĩ của bệnh viện tham gia giảng dạy và giữ các vị trí lãnh đạo các khoa, bộ môn của nhà trường và nhiều giảng viên, bác sĩ của nhà trường làm việc tại bệnh viện đã giữ các vị trí lãnh đạo các khoa của bệnh viện. Nhiều người đã giữ các vị trí quan trọng là giám đốc, phó giám đốc của các bệnh viện.

Xu hướng tự chủ của các trường đại học công lập

Xu hướng thế giới hiện nay đối với các trường đại học công lập nói chung là chuyển dịch dần từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang mô hình có mức độ tự chủ cao hơn - Nhà nước giám sát. Cùng với xu hướng phát triển của thế giới, các trường đại học ngành Y trong nước cũng đang phát triển theo xu hướng tự chủ đại học. Đảng và Nhà nước ta đã và đang đổi mới mạnh mẽ hoạt động của các trường đại học theo hướng tự chủ toàn diện.

Điều này được thể hiện trong Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ quy định về đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập và Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 15/2/2015 về quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công. Các chính sách của Nhà nước trong những năm gần đây đã mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học công lập. Trong đó Trường Đại học Y dược Cần Thơ đã được Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới cơ chế hoạt động tự chủ toàn diện từ tháng 4/2017.

Bối cảnh trên đòi hỏi các trường phải nâng cao nội lực tự chủ, phát triển đa dạng các nguồn thu đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho hoạt động và triển khai các kế hoạch phát triển của Nhà trường. Các trường đại học công lập ngành Y Việt Nam đã có nhiều cơ hội hơn để tăng cường hợp tác đào tạo đa dạng nhiều chuyên ngành, mở ra nhiều chương trình đào tạo hơn, quan hệ hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu phát triển mạnh nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức mới về công tác đổi mới đào tạo, đổi mới quản lý đại học và huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, trong khi nguồn đầu tư của NSNN hạn chế.

Vì vậy, đòi hỏi các trường đại học công lập ngành Y cần phải đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới công tác quản trị tài chính là một nội dung hết sức quan trọng để đáp ứng nhu cầu nguồn vốn cho hoạt động của nhà trường đạt mục tiêu, là tiền đề để thực hiện tự chủ đại học của Nhà trường.

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện tự chủ đối với trường đại học công lập ngành Y

Khi thực hiện tự chủ, các trường đại học công lập ngành Y có những yếu tố thuận lợi gồm:

Thứ nhất, nguồn nhân lực giảng viên là bác sĩ có trình độ chuyên môn cao.

Tại các trường đại học ngành Y, giảng viên còn là những bác sĩ có trình độ chuyên môn cao. Hay có thể nói, giảng viên các trường đại học ngành Y vừa là bác sĩ và là bậc thầy của bác sĩ. Đặc thù này đã tạo cho các trường đại học ngành Y có nguồn nhân lực giảng viên vừa là bác sĩ trình độ bậc cao trong đào tạo và khám chữa bệnh. Đây là một thuận lợi có ý nghĩa quan trọng trong việc khám, chữa bệnh phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân và mở rộng các hoạt động dịch vụ có thu, tăng thu nhập cho giảng viên và phát  triển nhà trường.

Thứ hai, phát triển nguồn thu khám chữa bệnh gắn kết với đào tạo và nghiên cứu của nhà trường.

Lịch sử đào tạo nghề y cho thấy, hầu hết học trò được chọn để đào tạo nghề y là từ học trò theo giúp việc (thực hành) và chọn những học trò có năng khiếu, tố chất để truyền nghề (đào tạo). Ngày nay, hoạt động đào tạo đã chuyển sang lựa chọn khả năng trước và thực hiện đào tạo bài bản cả lý thuyết và thực hành. Như vậy, mối quan hệ giữa lý thuyết và thực hành trong đào tạo nghề y đã có từ xa xưa không thể tách rời. Ngày nay sự gắn kết này càng phát triển mạnh, đây chính là cơ sở và là điều kiện thuận lợi để các trường đại học ngành Y phát triển nguồn thu từ hoạt động khám chữa bệnh.

Với đội ngũ giảng viên vừa là bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, với nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân; các trường đại học ngành Y nói chung đã kết hợp rất tốt công tác đào tạo và hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh, từ đó đã tạo nên nguồn thu rất đáng kể cho trường đại học ngành Y. Vì vậy, các trường đại học ngành Y cần biết xu hướng phát triển của nguồn thu này để xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển nguồn thu cho Nhà trường.

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, quá trình thực hiện tự chủ tại các trường đại học công lập ngành Y cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

Một là, hạn chế trong phát triển nguồn thu học phí. Nguồn thu học phí của các trường đại học được phát triển dựa trên hai yếu tố là số lượng người học và mức thu học phí. Đối với các trường đại học y, hai yếu tố này đang bị hạn chế:

- Đối với số lượng người học trong đào tạo đại học ngành Y chỉ tiêu hàng năm ít hơn các trường đại học các ngành khác. Đặc thù trong đào tạo ngành gắn kết chặt chẽ 3 yếu tố là “đào tạo gắn liền với thực hành và nghiên cứu khoa học”. Thời gian đào tạo bác sĩ dài hơn các ngành đào tạo đại học khác, tối thiểu phải 6 năm và ngay từ đầu sinh viên trường y đã vừa học lý thuyết vừa thực tập tại bệnh viện; do đó các trường đại học ngành Y không thể tuyển sinh đào tạo được nhiều sinh viên.

- Chi phí đào tạo trên góc độ của nhà trường là toàn bộ chi phí nhà trường bỏ ra để đào tạo sinh viên trong một thời hạn theo niên độ ngân sách (01 năm). Đối với đào tạo đại học ngành Y, chi phí đào tạo cao hơn các ngành khác, do một số nguyên nhân:

+ Thời gian đào tạo dài, các trường đại học khác đào tạo một cử nhân hay một kỹ sư chỉ từ 3 đến 5 năm; trong khi đó đào tạo một bác sĩ thời gian đào tạo tối thiểu là 6 năm. Ngoài ra, khi học xong 6 năm, các bác sĩ phải học thêm 3 năm bác sĩ nội trú mới trở thành bác sĩ có trình độ chuyên môn giỏi, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh phục vụ nhân dân.

+ Chi phí trong học thực hành cao do phải đầu tư các phòng thí nghiệm (Labo), các máy móc thiết bị và chi phí vật tư hóa chất phục vụ thực hành; điều đó làm tăng chi phí. Chi phí cho vật tư tiêu hao hàng ngày phục vụ học thực hành cho sinh viên tại các phòng thí nghiệm và tại bệnh viện là chi phí không thể thiếu và không nhỏ. Đặc thù trên đã làm chi phí đào tạo đại học ngành Y tăng cao hơn các trường đại học các ngành khác. Đây là đặc thù chung của các trường đào tạo đại học ngành Y, làm mức học phí của các trường đại học ngành Y đang cao hơn các trường đại học các ngành khác.

Chi phí đào tạo ngành Y cao hơn các ngành khác, trong khi mức tăng học phí cũng có giới hạn. Đối với Việt Nam, sự phát triển kinh tế của xã hội còn chậm; sự chấp nhận, khả năng chi trả của người học chưa cao và quy định mức trần thu học phí của Nhà nước còn thấp. Vì vậy, phát triển nguồn thu dựa vào nguồn học phí là rất khó khăn đối với các trường đại học công lập ngành Y hiện nay.

Hai là, quan hệ kinh tế giữa nhà trường và bệnh viện chưa được xác định: Quan hệ giữa nhà trường và bệnh viện trong đào tạo ngành Y là mối quan hệ không đơn thuần về góc độ đào tạo và khám chữa bệnh. Đây còn là mối quan hệ kinh tế giữa nhà trường và bệnh viện. Nhà trường cử bác sĩ đến làm việc tại bệnh viện như cán bộ của bệnh viện và đưa sinh viên, học viên sang học tập tại bệnh viện như cơ sở thực hành của nhà trường; Bệnh viện có được đội ngũ giảng viên, bác sĩ làm việc tại bệnh viện mà không trả lương.

Xét trên góc độ kinh tế, đây là sự hợp tác trong hoạt động giữa nhà trường và bệnh viện và cần được xác định minh bạch trong hoạt động thu chi. Tuy nhiên, hiện nay đây chỉ là quan hệ phối hợp, chưa xác định được mối quan hệ tài chính giữa hai bên làm cơ sở chuyển đổi sang mối quan hệ hợp tác trong cơ chế tự chủ tài chính.

Một số khuyến nghị

Phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những khó khăn khi thực hiện tự chủ, thời gian tới, các trường đại học công lập ngành Y cần triển khai thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, trao quyền tự chủ tài chính cùng với quyền tự chủ đại học.

Đảm bảo quyền tự chủ tài chính được thực thi, đồng thời Nhà nước thực hiện đồng bộ trao quyền về tự chủ đại học, là hai nội dung ràng buộc lẫn nhau, không thể tách rời, mà cần được hoàn thiện đồng bộ để tính hiệu lực và hiệu quả của cơ chế được thực hiện đạt kết quả cao.

Trên thế giới, sự phát triển theo xu hướng tự chủ là yếu tố cơ bản của trường đại học. Tự chủ đại học sẽ tạo động lực để các trường đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động của đơn vị, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các trường đại học, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động của nhà trường.

Thứ hai, đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất về ban hành cơ chế, chính sách.

- Tính đồng bộ và kịp thời: Hiện nay, nhiều văn bản ban hành nhưng không thực thi được vì phải chờ các văn bản hướng dẫn hoặc các văn bản quy định khác, ví dụ như: Chính phủ ban hành Nghị định 85/2012/NĐ-CP, trong đó quy định về quyền tự chủ về các khoản thu (Điều 14) và thẩm quyền quy định, quyết định giá dịch vụ y tế (Điều 19) lại phải chờ nhiều văn bản quy định cụ thể mới thực hiện được.

Tuy nhiên, đến nay đã 5 năm vẫn chưa có văn bản ban hành cụ thể các nội dung này. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, được xem là có nhiều thay đổi; tuy nhiên đây mới là nghị định khung, đến nay vẫn chưa có nghị định quy định cụ thể để thực hiện đối với lĩnh vực y tế, giáo dục.

Tính kịp thời của hệ thống văn bản phải đạt được hai nội dung chính đó là: kịp thời ban hành văn bản và kịp thời sửa đổi, bổ sung văn bản. Hiện nay, nhiều văn bản ban hành chậm không đáp ứng được tính đồng bộ như đã phân tích trên và nhiều văn bản đã lạc hậu chậm sửa đổi làm giảm tính hiệu lực, hiệu quả của văn bản (Ví dụ: Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân áp dụng trong 12 năm (từ 1998 đến năm 2010) mới được thay thế bởi Nghị định số 49/2010/NĐ-CP.

- Tính thống nhất và ổn định: Hiện nay, các văn bản luật và nghị định đã ban hành nhưng các văn bản hướng dẫn thực hiện như thông tư ban hành nhiều nội dung lại thắt chặt cơ chế tự chủ, không thống nhất với nghị định; hoặc văn bản này mở nhưng văn bản khác lại đóng. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính phải gắn liền với tính thống nhất của hệ thống văn bản, trách việc chồng chéo của văn bản.

Tính thống nhất của văn bản giữa các luật với nhau, giữa các văn bản dưới luật như các nghị định, thông tư; thống nhất giữa các thông tư của các bộ, các ngành và thống nhất giữa các cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới và ngay trong cùng một văn bản các nội dung phải thống nhất. Hiện nay, ngay trong một văn bản vẫn còn nhiều nội dung giữa các điều không thống nhất, vì vậy khi thực hiện gặp khó khăn.

Mặt khác, bên cạnh sự thống nhất về nội dung của văn bản, thì văn bản cần phải đảm bảo tính ổn định và sự phù hợp thực tiễn của văn bản. Đây là một nội dung rất quan trọng để nâng cao tính tự chủ của các trường đại học công lập.

Tự chủ tài chính luôn đi kèm với sự đầu tư của đơn vị cho hoạt động, nếu chế độ không có sự ổn định lâu dài thì khó cho các trường xây dựng và lập kế hoạch phát triển của trường đại học công lập, để các trường chủ động trong việc huy động nguồn thu, tự chủ trong các khoản chi để nâng cao chất lượng đào tạo.

Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị tài chính của các trường.

Một thời gian dài các trường đại học công lập nước ta thực hiện cơ chế bao cấp của NSNN, tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm bị hạn chế. Đứng trước xu hướng phát triển hiện nay, các trường đại học công lập ngành Y nói riêng và các trường đại học công lập nói chung cần đổi mới tư duy, nhận thức để đáp ứng kịp sự phát triển theo xu hướng tự chủ; Đổi mới công tác nhân sự trong tuyển dụng, đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý tài chính kế toán.

Hiện nay hoạt động của nhà trường ngày càng phát triển mạnh, đặc biệt hiện nay sự phát triển bệnh viện, các viện đào tạo, viện nghiên cứu… trong trường đại học đã làm thay đổi mô hình quản trị tài chính của các trường đại học công lập ngành Y, từ mô hình đơn vị dự toán hai cấp sang mô hình đơn vị dự toán ba cấp. Tuy nhiên, các thành viên ban giám hiệu các trường đại học công lập ngành Y chủ yếu mới chỉ được đào tạo về chuyên môn bác sỹ, chưa được đào tạo trình độ về quản lý tài chính.

Để đáp ứng được yêu cầu quản trị tài chính trong bối cảnh phát triển của trường đại học công lập ngành y hiện nay; trong ban giám hiệu cần có cơ cấu 01 (một) thành viên có chuyên môn nghiệp vụ kinh tế, có vai trò như giám đốc tài chính trong doanh nghiệp để phụ trách nhiệm vụ quản trị tài chính và quản trị cơ sở vật chất của nhà trường. Bên cạnh đó, cần tổ chức bộ máy công tác tài chính kế toán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giúp ban giám hiệu trong công tác lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát hoạt động đảm bảo hoàn thành mục tiêu, kế hoạch của nhà trường.

Các trường đại học công lập ngành Y hiện nay đã thay đổi sang mô hình quản trị 3 cấp, vì vậy trong công tác quản trị của nhà trường, cần xây dựng cơ chế phân cấp, trao quyền mạnh cho các đơn vị cấp dưới đảm bảo thực thi cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (quản trị cấp cơ sở) và ban giám hiệu thực hiện cơ chế quản trị cấp cao.

Thứ tư, sẵn sàng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính.

Qua một số liệu điều tra, khảo sát của tác giả về thực trạng quản trị tài chính của một số trường đại học công lập ngành Y năm 2012-2015 cho thấy, với mức thu, chi hiện tại của các trường, nguồn thu sự nghiệp tại trường đã cân đối được thu – chi hoạt động thường xuyên. Vì vậy, các trường đại học công lập ngành Y cần đổi mới tư duy và hướng tới lập đề án đề nghị Chính phủ phê duyệt cho thực hiện tự chủ.

Khi đó, các trường được quyền quyết định mức thu học phí cao hơn, sẽ có điều kiện tăng chi phí, nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường. Thực tiễn cho thấy, tháng 4/2017, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ đã được Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới hoạt động. Nhà trường được tự chủ toàn diện, trong đó được quyết định mức thu học phí cao hơn, đây là cơ sở để tăng nguồn thu, đảm bảo thực hiện tự chủ.    

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới;

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Báo cáo số 593/TTr-BGDĐT, ngày 13/7/2015 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành mức thu học phí gia đoạn 2015- 2021;

3. Chính phủ (1998), Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;

4. Chính phủ (2010), Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 về việc quy định miễn giảm học phí, hỗ trợ học phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015;

5. Chính phủ (2012), Nghị định 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám, chữa bệnh của các cơ sở khám, chữa bệnh công lập;

6. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập gia đoạn 2014-2017;

7. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công;

8. Chính phủ (2015), Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021.