Doanh nghiệp Việt đối diện như thế nào với phòng vệ thương mại

PV.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới, doanh nghiệp xuất khẩu đã và đang phải đối mặt với nhiều vụ kiện và điều tra phòng vệ thương mại (PVTM). Thực tiễn này đặt ra yêu cầu các doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức và có biện pháp ứng phó hiệu quả với các biện pháp PVTM và bảo vệ sản xuất trong nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Hội nhập – Doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức

Theo Báo cáo thường niên 2014 của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, trong năm 2014, con số các vụ kiện PVTM tính đến hết tháng 10/2014 lên đến 80 vụ, trong đó, các vụ kiện chống bán phá giá đối với doanh nghiệp Việt Nam lên tới 47 vụ. Việt Nam đã kháng kiện thành công một số vụ việc PVTM có liên quan đến hàng hóa xuất khẩu.

Tính tới tháng 10/2015, tổng số vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài là 70 (trong đó, tổng số vụ dẫn tới áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại là 36); tổng số vụ điều tra chống trợ cấp là 7 (số vụ dẫn tới áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại là 4); tổng số vụ điều tra tự vệ là 17 (số vụ dẫn tới áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại là 6).

Theo thông tin từ Trung tâm WTO và Hội nhập - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra tại buổi công bố Kết quả điều tra nghiên cứu: “Điều gì cản trở doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại (PVTM) để tự bảo vệ trước hàng hoá nước ngoài”.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại và thiếu thông tin trong việc sử dụng các công cụ phòng vệ, tự bảo vệ hàng hóa của doanh nghiệp mình.

Thống kê của Hội đồng Tư vấn phòng vệ thương mại Trung tâm WTO và Hội nhập thực hiện từ cuối năm 2014 với hơn 1.000 doanh nghiệp cho thấy, 60 - 70% doanh nghiệp được hỏi đã biết về công cụ phòng vệ thương mại.

Các doanh nghiệp không chỉ biết về công cụ phòng vệ thương mại với tính chất là một rào cản ở nước ngoài, mà còn biết đến chúng với tính chất công cụ có thể sử dụng ở trong nước để bảo vệ chính mình.

“Tuy nhiên, điểm hạn chế là hiểu biết của các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức độ “sơ khởi”, nghe nói tới nhưng không có kiến thức sâu hơn về công cụ này”, bà Trang cho hay.

Số lượng các vụ kiện PVTM ở Việt Nam quá ít và có quá nhiều lý do khiến PVTM hầu như là công cụ bị bỏ quên tại Việt Nam.

Luật sư Phạm Lê Vinh, Công ty Luật TNHH ATIM cho rằng, thông qua các vụ kiện chống bán phá giá thời gian qua, có thể thấy, thái độ hợp tác của các doanh nghiệp nội với tư cách là nguyên đơn hay bị đơn còn rất kém.

Thêm nữa, rào cản tâm lý của không ít doanh nghiệp sợ nước ngoài, tâm lý sợ tốn kém do hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế… càng khiến cho doanh nghiệp không dám “với tay” đến công cụ PVTM.

Kết quả điều tra về vấn đề này cho thấy, có tới 86% doanh nghiệp cho rằng, nếu đi kiện thì mình sẽ gặp khó khăn trong huy động tài chính cho việc này (trong đó 52% cho là khá khó khăn, 34% cho rằng việc huy động này rất khó khăn). Chỉ có 2% cho rằng chi phí kiện phòng vệ thương mại sẽ không là vấn đề gì lớn, 12% cho rằng dù có thể khó khăn nhưng sẽ là không quá lớn.

Nhìn vào một số vụ việc PVTM ít ỏi của doanh nghiệp nội có thể thấy rõ điều này, hầu hết doanh nghiệp khởi kiện hay áp dụng biện pháp PVTM có quy mô lớn, tài chính mạnh. Điển hình là vụ việc điều tra áp dụng tự vệ đối với sản phẩm kính nổi vào năm 2009 do 2 nguyên đơn là Công ty Kính nổi Viglacera và Công ty TNHH Kính nổi Việt Nam (sản phẩm của 2 doanh nghiệp chiếm hơn 90% thị phần).

Hay như vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với dầu thực vật, do 4 doanh nghiệp lớn nắm 100% thị phần dầu ăn trong nước là: Công ty CP Dầu thực vật Tường An, Dầu thực vật Tân Bình, Dầu thực vật Cái Lân và Dầu ăn Holden Hope - Nhà Bè.

Kết quả điều tra nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, công cụ PVTM hiện vẫn đang là công cụ của nhà giàu, chưa phải là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ, vốn là những chủ thể chịu tác động mạnh nhất từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam.

Đánh giá về khả năng khởi kiện của các doanh nghiệp Việt Nam, bà Trang cho rằng, kiện PVTM không phải là “cuộc chơi” của mỗi doanh nghiệp riêng lẻ, nó là “cuộc chơi tập thể”, là chiến lược hay hành động của cả một ngành sản xuất nội địa sản phẩm liên quan.

Theo đó, để sử dụng công cụ này, các doanh nghiệp nhất thiết phải tập hợp lại với nhau thành một lực lượng đủ sức đại diện cho một ngành sản xuất nội địa liên quan.

Cần tích cực, chủ động trong phòng vệ thương mại

Phòng vệ thương mại đang là “vũ khí” các doanh nghiệp lớn, tài chính mạnh. Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp nhỏ cũng sử dụng hiệu quả công cụ này trong bối cảnh hội nhập nhiều thách thức. công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ.

Trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện công tác PVTM nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn mà một trong những nguyên nhân là do chưa có nhận thức đầy đủ về các quy định pháp luật nói chung và trong lĩnh vực PVTM nói riêng. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên còn gặp rất nhiều hạn chế về nguồn lực và kinh phí khi tham gia vào PVTM.

Bên cạnh đó, hiểu biết trong lĩnh vực PVTM của các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế dẫn đến việc đưa ra những chính sách vi phạm các Hiệp định WTO, gây ra các vụ kiện liên quan đến trợ cấp đối với hàng xuất khẩu.

Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự quan tâm các công cụ PVTM để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, do đó, đã phải đối mặt với nhiều vụ kiện PVTM, bao gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.

Để hạn chế bị kiện PVTM, theo bà Nguyễn Chi Mai, Phòng Xử lí các vụ kiện PVTM của nước ngoài, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh tập trung tại một thị trường. Bên cạnh đó, cần nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu vì các vụ kiện PVTM chủ yếu tập trung vào kiện chống bán phá giá đối với các mặt hàng tập trung số lượng nhiều, giá rẻ. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần chủ động tham gia các vụ kiện vì đây là cách tốt nhất để tự bảo vệ quyền lợi của mình.

Ngoài việc đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, luật sư Trần Hữu Huỳnh khuyến nghị, dưới áp lực nguy cơ bị kiện như vậy, hiệp hội/ngành hàng cần đưa ra thông tin để doanh nghiệp biết, điều phối không làm mặt hàng quá rẻ, cạnh tranh trực tiếp với nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, hệ thống cảnh báo sớm của cơ quan quản lý, thương vụ nước ngoài cần được cập nhật để doanh nghiệp điều phối.

Đặc biệt, khi đã xảy ra vụ kiện, doanh nghiệp cần hợp tác với cơ quan chức năng trong việc minh bạch sổ sách kế toán để chứng minh doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế nền kinh tế thị trường, để biên độ áp thuế thấp hơn.

Hiện nay, biện pháp PVTM gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đang được nhiều nước trên thế giới lựa chọn nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.

Để thích ứng với xu hướng này, Việt Nam cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiện PVTM thông qua việc điều chỉnh, cập nhật, chi tiết hóa các quy định hiện tại trong các văn bản pháp luật liên quan là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, áp dụng biện pháp PVTM cũng như đảm bảo tính an toàn pháp lý của các hoạt động này, tránh nguy cơ bị các nước thành viên WTO kiện do vi phạm cam kết.