Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

TS. Ngô Thị Thu Thủy

Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Một trong những điểm đáng chú ý và được xã hội kỳ vọng chính là Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (tháng 10/2016) xác định đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, làm rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta, nêu bật các giải pháp thực hiện nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Xác định rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng

Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (tháng 10/2016) đã bàn thảo và thông qua nhiều nội dung quan trọng, bức thiết, trong đó có nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn sự suy thoái, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng.

Việc Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII thông qua nghị quyết, trong đó có nội dung xác định rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng như các giải pháp thực hiện quá trình này có thể xem là bước tiến quan trọng, tháo những “nút chặn” đang làm nghẽn nỗ lực của cả hệ thống chính trị.

Thực tế cho thấy, một khi đã xác định rõ nội hàm cũng như các giải pháp thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, việc đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ hợp thành động lực đủ mạnh, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn, chất lượng hơn, vượt qua khó khăn, thách thức, tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới.

Tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là hai vế của một vấn đề và đều có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam. Song, trong lúc tái cơ cấu nền kinh tế đã được khởi động thực hiện thì đổi mới mô hình tăng trưởng dường như lại chậm nhịp. Tại nhiều thời điểm, việc tập trung giải quyết các vấn đề ngắn hạn của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, nợ xấu… khiến những nỗ lực thực hiện tái cơ cấu kinh tế, cũng như đổi mới mô mình tăng trưởng chưa đạt kết quả như mong muốn.

Chính vì vậy, trong phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 4, Khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn đặt câu hỏi về việc chúng ta chưa nhận thức đúng và thống nhất về mô hình tăng trưởng mới, với đầy đủ những yếu tố cấu thành động lực, nguồn lực và phương thức tạo ra sự tăng trưởng; thậm chí còn nhìn nhận giản đơn, đồng nhất mô hình tăng trưởng với mô hình phát triển.

Tổng Bí thư cũng chỉ rõ, việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa có bước đột phá về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển theo tín hiệu và cơ chế thị trường.

Thực tiễn chỉ ra rằng, muốn đổi mới mô hình tăng trưởng, mang lại hiệu suất kinh tế cao, phải phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường và cần có biện pháp tiếp cận mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, vì tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam còn chậm nên phân bổ nguồn lực vẫn mang đậm cơ chế “xin – cho”. Tái cơ cấu nền kinh tế còn chậm thì chưa thể thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng và ngược lại. Bởi thế, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn chủ yếu theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp…

Do vậy, nếu không muốn tụt hậu xa hơn, muốn công cuộc Đổi mới đất nước thành công, phải quyết liệt thực hiện song hành tái cơ cấu nền kinh tế với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây là nhiệm vụ chiến lược vô cùng quan trọng, nhất là trong bối cảnh nội hàm mô hình tăng trưởng của Việt Nam còn nhiều bất cập, tốc độ tăng trưởng gần đây bị suy giảm, nguy cơ tụt hậu thấy rõ.

Trung ương đã xác định đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, đồng thời làm rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cũng như nêu bật các giải pháp thực hiện nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này. Đi vào chi tiết, Trung ương đã xem xét Đề án “Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế”, xác định mô hình tăng trưởng cần đổi mới theo xu hướng sau:

Thứ nhất, xây dựng mô hình tăng trưởng ngày càng dựa nhiều hơn vào năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ hai, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo tín hiệu và cơ chế thị trường.

Thứ ba, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tài năng, trí sáng tạo của con người Việt Nam và mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước.

Thứ tư, tạo cơ hội cho mọi người dân tham gia và cùng hưởng lợi từ tăng trưởng.

Thứ năm, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn môi trường sinh thái.

Một khi đã xác định rõ nội hàm cũng như các giải pháp thực hiện thì cùng với tái cơ cấu nền kinh tế, việc đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ kết hợp thành lực véc – tơ đủ mạnh, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn, chất lượng hơn.

Hiện thực hóa các nội hàm đó, các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cũng được xác định. Trước hết là đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện 3 đột phá chiến lược, bao gồm tăng cường đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Chú trọng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, theo hướng hiện đại; Phát triển đồng bộ, lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường bất động sản.

Bên cạnh đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh việc ưu tiên bố trí nguồn lực để bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt hơn Đề án Cơ cấu lại nông nghiệp; khẩn trương bổ sung xây dựng, thực hiện Đề án Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công và Đề án Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công.

Việc xác định rõ nội hàm của đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như các giải pháp thực hiện được dư luận xã hội đặt nhiều kỳ vọng là bởi đã có nhiều kỳ họp, nhiều cuộc hội thảo ở các cấp, các ngành được tổ chức nhưng câu hỏi về đổi mới mô hình tăng trưởng còn đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có nhiều vấn đề khá mới trong khi câu trả lời lại chưa thực sự thỏa đáng.

Chính vì vậy, việc Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII thông qua nghị quyết, trong đó có nội dung xác định rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng như các giải pháp thực hiện có thể xem là bước tiến quan trọng, tháo những “nút thắt” làm ảnh hưởng đến nỗ lực của cả hệ thống chính trị.

Như vậy, một khi đã xác định rõ nội hàm cũng như các giải pháp thực hiện, thì cùng với tái cơ cấu nền kinh tế, việc đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ kết hợp thành lực véc – tơ đủ mạnh, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn, chất lượng hơn, vượt qua khó khăn, thách thức, tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới. Đây được coi là những văn kiện quan trọng để phát triển đất nước, từ đó, tập hợp được nhân sỹ trí thức hàng đầu tham gia mổ xẻ, phân tích làm rõ chúng ta cần phải tập trung làm những gì để tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Có thể khẳng định rằng, đã đến lúc chúng ta cần có tư duy đột phá mang tính chiến lược trong phát triển kinh tế. Đã đến lúc phải tập trung tìm kiếm mô hình phát triển mới, có tầm nhìn dài hạn để tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, cho đột phá phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

Cần hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện

Để thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng cần hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện, trong đó, tập trung vào một số giải pháp chủ yếu: Tháo gỡ khó khăn về thể chế, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và người dân; phát triển kinh tế tri thức; thúc đẩy tăng trưởng xanh... Cụ thể bao gồm:

Thứ nhất, quyết liệt tháo gỡ khó khăn về thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư - kinh doanh.

Trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, cần thiết phải chuyển từ nền hành chính quản lý truyền thống sang nền hành chính tạo lập môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân; Phải coi DN, công dân là khách hàng để mỗi cơ quan có trách nhiệm cung ứng những dịch vụ công tốt nhất, có chất lượng và hiệu quả nhất. Để giải quyết các vấn đề này cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:

- Tập trung hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế kinh tế, liên quan đến sản xuất, kinh doanh theo hướng đồng bộ, minh bạch, rõ ràng; Cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh, về quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp. Kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính theo hướng bảo đảm thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Công khai hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình…

- Phát triển Chính phủ điện tử, tiến tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến là một nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính; góp phần tăng tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy chính quyền, phục vụ người dân và DN tốt hơn.

Thứ hai, đẩy nhanh phát triển kinh tế tri thức.

Kinh tế tri thức với 4 trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ môi trường được hình thành dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ trở thành hiện tượng phổ biến và ngày càng lan rộng cùng với quá trình toàn cầu hoá. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, cần tập trung vào các biện pháp sau:

- Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo ra những điều kiện và tiền đề cần thiết cho kinh tế tri thức hình thành; Tập trung cho phát triển nguồn nhân lực đóng góp vào tăng năng suất lao động nói chung và các yếu tố năng suất tổng hợp nói riêng, đó là nhân lực hoạch định chính sách; nhân lực khoa học và công nghệ; nhân lực quản trị người lao động sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ.

- Tập trung tiềm lực khoa học và công nghệ đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo ra sản phẩm hàng hoá mới, dịch vụ mới, phương pháp tổ chức sản xuất, quản lý mới hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phương pháp tổ chức quản lý tiến tiến, hiệu quả.

- Áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm đưa dần hàm lượng tri thức và hàm lượng công nghệ, thông tin vào giá trị của sản phẩm. Phát triển và nhân rộng công nghệ mới bằng cách tạo điều kiện cho các DN tiếp cận tới các sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ sử dụng các công nghệ mới.

- Ứng dụng rộng rãi công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp để tạo các giống, cây, con mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Xây dựng DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo nền móng để hình thành nền nông nghiệp tiên tiến, thân thiện với môi trường.

- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, xây dựng và hình thành mô hình xã hội học tập, tạo môi trường học tập suốt đời, phát triển mô hình đào tạo mở và đào tạo từ xa, tạo cơ hội cho tất cả mọi người có điều kiện học tập để nâng cao trình độ học vấn, cập nhật kiến thức.

Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Để thúc đẩy tiến độ chuyển dịch sang nền kinh tế xanh, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

- Nâng cao nhận thức trong các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân về tăng trưởng xanh trong xu thế hội nhập hiện nay; đồng thời, có chiến lược rõ ràng về vị thế của kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế xanh toàn cầu với những tiềm năng, lợi thế và cả những thách thức. Định hướng đó phải được thể chế hóa trong cơ chế, chính sách, làm căn cứ để thu hút, khuyến khích đầu tư cả của các DN trong nước và nước ngoài.

- Rà soát cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, những ngành nghề phù hợp với nền kinh tế xanh trong điều kiện phát triển của Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện; hạn chế, tiến tới thu hẹp những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế thâm dụng nhiều tài nguyên, phát thải nhiều chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Cùng với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, cần rà soát cơ cấu tiêu dùng của DN và người dân, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải, nơi tiêu thụ một lượng lớn năng lượng hóa thạch, phát thải nhiều khí độc hại gây ô nhiễm môi trường.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh đối với đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; đội ngũ doanh nhân, công nhân kỹ thuật về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, tiếp cận sớm những kiến thức xanh và công nghệ sạch của thế giới để triển khai áp dụng ở Việt Nam.

- Phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nhân, hiệp hội ngành nghề trong việc tuyên truyền, vận động các DN áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc tiếp thu sáng kiến, công nghệ, kinh nghiệm quốc tế về sản xuất xanh; khuyến khích DN kết hợp với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong việc thúc đẩy nghiên cứu - chuyển giao.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 225, tr. 252, tr. 52, tr. 270;

2. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII;

3. Cải cách thể chế để phát triển: Mệnh lệnh không thể chần chừ, http://baodautu.vn/cai-cach-the-che-de-phat-trien-menh-lenh-khong-the-chan-chu-d32089.html.