Đột phá công nghệ, tăng năng suất lao động

Theo Nguyễn Thủy/daibieunhandan.vn

Năng suất lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và quyết định sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, năng suất đang là thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tăng trưởng chậm bởi năng suất thấp

Nhìn vào thực tiễn, các chuyên gia cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm năng và dư địa, cơ hội để gia tăng năng suất. Trước hết là phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ, cải thiện môi trường kinh doanh và đào tạo nguồn nhân lực. Nhận thức rõ điều này, tại Hội thảo Cải thiện năng suất trong bối cảnh công nghiệp hóa do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức ngày 11/1, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đại Dương cho rằng GDP vẫn được lấy làm thước đo sức khỏe của nền kinh tế. GDP được tính dựa trên năng suất lao động và số lượng lao động, trong khi để tăng số lượng lao động mức độ quốc gia thì rất khó, thế nên để tăng GDP chỉ có khả năng là phải tăng năng suất. Việc tìm ra giải pháp thiết thực để tăng năng suất lao động có tác dụng quyết định đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.

Đồng tình với quan điểm trên, Phó Trưởng ban ban Kinh tế trung ương Ngô Văn Tuấn nhấn mạnh, cải thiện năng suất không chỉ nâng cao năng suất của người lao động mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, năng suất vốn. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh của mọi quốc gia, bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, một điều đáng buồn là năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7% năng suất lao động của Singapore, 17,6% của Malaysia và đặc biệt chỉ tương đương với 87,4% của Lào.

Giải thích điều này, GS.Kenichi Ohno, đại diện Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản nhận xét, tình trạng nâng cao năng suất của Việt Nam rất ảm đạm, năng suất thể hiện rõ sự thâm hụt vốn. Sự tăng trưởng của Việt Nam trong quá khứ là do số lượng (nguồn vốn và lao động) chứ không phải là chất lượng (năng suất). Tăng trưởng chậm lại do năng suất lao động giảm đi. Không chỉ vậy, chất lượng chính sách của Việt Nam vẫn thấp so với các nền kinh tế có năng suất cao ở Đông Á..

Thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, GS. Trần Văn Thọ cho biết thêm, lao động dư thừa trong nông nghiệp và khu vực kinh tế cá thể còn rất lớn, chiếm tỷ lệ 41,6% năm 2016. Bên cạnh đó, nền kinh tế cũng đang chứng kiến tình cảnh doanh nghiệp vốn nước ngoài (FDI) số lượng nhiều nhưng chất lượng còn thấp, ít tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng lên cao.

Liên kết hàng dọc giữa FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu nên tác động lan tỏa của công nghệ, tri thức kinh doanh đến nền kinh tế hạn chế. Doanh nghiệp Việt Nam, nhất là tư nhân, quy mô quá nhỏ, năng suất thấp, không có năng lực xuất khẩu và không kết nối được với chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty đa quốc gia. Do quy mô nhỏ nên không có năng lực du nhập công nghệ, không đầu tư, đổi mới thiết bị.

Vì vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại sẽ thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp, sẽ “phá hoại một cách sáng tạo” khu vực kinh tế cá thể làm cho năng suất lao động tăng nhanh. Việt Nam có thể phát triển tốc độ cao, vượt qua bẫy thu nhập trung bình dễ dàng nếu có chiến lược tận dụng tiềm năng đang có và lợi thế nước đi sau. “Dư địa để tăng năng suất là chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ khu vực cá thể sang hình thức tổ chức DN hiện đại, từ tăng quy mô DN đang quá nhỏ hiện nay”, GS. Thọ nhấn mạnh.

Công nghiệp hóa - mũi đột phá năng suất

“Với một nước mà mức thu nhập trung bình còn thấp như Việt Nam, công nghiệp là khu vực năng động nhất, năng suất cao nhất, dư địa cách tân công nghệ lớn nhất”, GS. Thọ khuyến nghị. Theo ông, khoảng cách công nghệ của Việt Nam với nước ngoài còn lớn. Vì thế, Việt Nam cần tích cực chọn lựa, du nhập công nghệ và đầu tư thay đổi thiết bị.

Chỉ có cách tân công nghệ và cải cách thể chế mới giúp làm tăng năng suất lao động. Tuy nhiên ông cũng cảnh báo, công nghiệp hóa không tiến triển, lao động sẽ chuyển sang các ngành dịch vụ giá trị thấp. Nếu lao động chỉ dịch chuyển từ khu vực năng suất thấp sang khu vực năng suất cũng thấp thì sự dịch chuyển này không mang lại thay đổi gì.

Để giải quyết vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đại Dương cho rằng, Nhà nước cần chủ động hơn, lấy doanh nghiệp là trung tâm để ban hành các chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Chất lượng chính sách cần phải được cải thiện cả về tư duy và khả năng nhằm vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

Các doanh nghiệp cũng cần tích cực, chủ động hơn trong việc phối hợp với Chính phủ, chia sẻ với Chính phủ về phát triển hạ tầng, khoa học công nghệ. Cần quyết liệt với giáo dục đào tạo hơn, phối hợp với quốc tế, ban hành đối sách để làm sao thu hút được FDI nhưng vẫn tận dụng được chuyển giao công nghệ của các dự án FDI. Đặc biệt là phải chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, để cả hai phát triển cùng nhịp, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Các chuyên gia cũng cho rằng, Việt Nam có thể phát triển tốc độ cao, vượt qua bẫy thu nhập trung bình dễ dàng nếu có chiến lược tận dụng tiềm năng đang có và lợi thế là nước đi sau. Phải tận dụng dư địa để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ khu vực cá thể sang hình thức tổ chức doanh nghiệp hiện đại. Đặc biệt, du nhập công nghệ kết hợp với phát triển thị trường vốn sẽ thúc đẩy đầu tư theo hướng cách tân công nghệ, tăng năng suất. Bên cạnh đó, cũng phải tiến hành công nghiệp hóa theo chiều sâu và theo diện rộng để tránh hiện tượng giải công nghiệp hóa quá sớm, tạo việc làm năng suất cao cho lao động chuyển từ nông nghiệp và khu vực cá thể.