Dự trữ ngoại hối “nhảy” 10 tỷ USD sau hai năm?

Theo vneconomy.vn

(Tài chính) Tại hội thảo đầu tuần này, ông Sumit Dutta, Tổng giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam, đưa ra dự báo lạc quan: dự trữ ngoại hối Việt Nam năm 2013 ở khoảng 30 tỷ USD, 2014 là khoảng 35 tỷ USD và 2015 sẽ đạt 40 tỷ USD.

Dự báo 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong vài năm tới là có thể? Nguồn: internet
Dự báo 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong vài năm tới là có thể? Nguồn: internet
40 tỷ USD đạt được trong hai năm tới. Một số chuyên gia tại hội thảo đó có vẻ hoài nghi, hay gián tiếp khó tin khi nhìn nhận ở mức độ mong muốn của dự báo.

Nhưng, diễn biến tỷ giá và thị trường ngoại hối Việt Nam đã từng có những hiện thực tưởng như không thể.

Nhiều năm về trước, khi tỷ lệ đô la hóa của Việt Nam trên 30%, được xem là trầm trọng theo “thước đo” của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). TS. Tô Kim Ngọc, Phó giám đốc Học viện Ngân hàng nhớ lại, tại thời điểm đó, giảm được tỷ lệ đô la hóa xuống 15% đã là điều không tưởng. Nhưng nay, kết quả thực tế chỉ còn 12%.

Vài năm về trước, khi sống trong những cú sốc của tỷ giá, có lẽ những người lạc quan cũng không nghĩ hai năm liên tiếp tỷ giá USD/VND chỉ thay đổi quanh +/-1%. Thực tế, nhiều dự báo của chuyên gia, tổ chức quốc tế đều trượt xa trong năm 2012 và cả 2013 này.

Trở lại dự báo của ông Sumit Dutta, dĩ nhiên nó có hàm lượng uy tín và cơ sở.

Bản tham luận của vị sếp ngoại từng nhiều năm gắn bó với thị trường Việt Nam có thông điệp khá hấp dẫn: “Nhìn từ bên ngoài, Việt Nam có triển vọng tươi đẹp”. Minh chứng cho góc nhìn này là tiềm năng của một quốc gia dân số trẻ, chính trị ổn định, nhiều ngành hàng có triển vọng phát triển nhanh và hấp dẫn đầu tư…

“Nhìn từ bên ngoài”, có thể hiểu đó là góc nhìn của nhà đầu tư nước ngoài, ở đây là Tổng giám đốc HSBC Việt Nam. Là nhà đầu tư nước ngoài, điều họ quan tâm nhất là gì? Nhiều yếu tố, nhưng nhức nhối nhất những năm trước là biến động tỷ giá.

Các lần phá giá liên tục từ 2008 - 2011 với mức độ lớn đã trở thành nỗi ám ảnh của vốn ngoại, nhất là các quỹ đầu tư trên sàn chứng khoán. Còn nhớ giữa năm 2011, tại một buổi gặp gỡ đại diện lãnh đạo các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhận định chung đưa ra là nỗi sợ tăng tỷ giá. Trao đổi bên lề, một giám đốc quỹ nói rằng tỷ giá ở Việt Nam giống như viên sỏi trong giày họ, và họ có cảm giác bị “móc túi” qua những lần phá giá VND liên tục và mạnh.

Một đại diện quỹ đầu tư đến từ Nhật Bản khi đó chia sẻ rằng, nửa cuối 2011 và cả 2012 họ sẽ cầm chừng và chờ đợi; đến năm 2013 mới có thể kỳ vọng có cơ hội sinh lời. Dường như thị trường chứng khoán năm 2013 đúng là đã có chiều hướng tốt hơn, ít nhất là không quá tệ như vài năm trước.

Ở dự báo của mình, ông Sumit Dutta cũng nhấn mạnh đến yếu tố ổn định tỷ giá USD/VND trong hai năm qua. Điều này giúp dòng vốn đầu tư nước ngoài trở lại, đặc biệt tăng rất nhanh và mạnh từ tháng 4/2013 đến nay. Tỷ giá ổn định được xem là lợi thế thu hút của Việt Nam trong khu vực, dĩ nhiên là bao gồm nhiều yếu tố khác nữa.

Thống kê của chuyên gia HSBC cho thấy, tính từ đầu năm đến tháng 8/2013, Việt Nam là quốc gia có đồng tiền ổn định thứ ba trong khu vực châu Á (sau Trung Quốc và Hồng Kông). Sự mất giá mạnh của đồng nội tệ tại nhiều quốc gia và nền kinh tế trong kỳ so sánh trên thực sự là “viên sỏi lớn” trong giày khối ngoại, theo như cách nói của vị quản lý quỹ trên.

Cụ thể, tại những thị trường được xem là cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam như Thái Lan, Philippines, Malaysia…, đồng nội tệ mất giá từ 5,4% - 9%. Hay tại Nhật Bản, mức mất giá là 11,17%, tại Indonesia là 12,68%, tại Ấn Độ lên tới 15,47%...

Sự ổn định của tỷ giá USD/VND kích thích vốn ngoại trở lại Việt Nam sau cú đảo chiều 2008 - 2009. Và đây là một trong những cơ sở để ông Sumit Dutta lạc quan dự báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ tăng lên 35 tỷ USD vào năm 2014, đạt 40 tỷ năm 2015.

Với một thị trường ngoại hối vẫn tiềm ẩn những rủi ro, với một nền kinh tế có độ mở ngày một lớn, dự báo đó là khá xa (về thời gian). Song, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam cũng đưa ra một dẫn chứng rất tươi mới: “bồ thóc ngoại tệ” trong nhà Việt Nam đã đầy lên khoảng 200% chỉ trong vòng hai năm qua - điều mà vài năm trước hẳn ít ai “mơ mộng” đến.

Thông tin cập nhật bên lề, kể từ ngày 10/10 đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn mua vào ngoại tệ khá đều; tỷ giá USD/VND trên liên ngân hàng liên tục nằm dưới mức mua vào của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước…

Với cung ngoại tệ thuận lợi, ông Sumit Dutta dự báo, đến cuối năm nay tỷ giá USD/VND sẽ chỉ nằm ở khoảng 21.250 VND; năm 2014 cũng chỉ giao động khoảng 21.500 VND, thậm chí năm 2015 vẫn ở khoảng 21.500 VND.

Chỉ còn 40 ngày nữa để kiểm chứng mốc dự báo khoảng 21.250 VND. Nhiều khả năng lần thứ ba liên tiếp cam kết giữ ổn định của Ngân hàng Nhà nước được đảm bảo. Điều quan tâm hơn là liệu có một cam kết tương tự cho năm 2014 hay không?

Trao đổi với đại biểu Quốc hội trong khuôn khổ kỳ họp đang diễn ra, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, ổn định tỷ giá là hướng lựa chọn của chính sách điều hành, bởi qua đó giúp thực hiện được nhiều mục tiêu đồng thời.

Thứ nhất, do tỷ giá và lạm phát có mối quan hệ tác động lẫn nhau, tỷ giá ổn định góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Thứ hai, tỷ giá ổn định tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành chính sách tiền tệ theo hướng giảm dần mặt bằng lãi suất, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, tỷ giá ổn định tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước tăng dự trữ ngoại hối, nâng cao tiềm lực tài chính cho quốc gia.

Thứ tư, tỷ giá ổn định cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu.

“Việc điều chỉnh tỷ giá cần đảm bảo phù hợp với tín hiệu thị trường và cân nhắc thận trọng các tác động đến lạm phát và tiến trình ổn định kinh tế vĩ mô, đến môi trường đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, đến nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ cũng như của các doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn khó khăn. Trong dài hạn, điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát là biện pháp căn cơ nhất để ổn định và nâng cao giá trị của đồng Việt Nam”, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói.

Một cam kết tương tự như cuối 2011, trong 2012 và 2013 cho năm 2014 hiện còn để ngỏ, cũng có thể do còn khá sớm. Song, nếu có, nên được hiểu thế nào? Nó sẽ tạo lập niềm tin vào chính sách điều hành, nhưng cũng có thể làm méo mó kỳ vọng của thị trường?

Một lãnh đạo cao cấp khác của Ngân hàng Nhà nước, chuyên trách mảng ngoại hối trả lời rằng, thời gian qua, trước khi đưa ra một khoảng cam kết, nhà điều hành đã phải tập trung tính toán các mô hình định lượng, phải vượt qua được các phản biện, chứ không phải là một cam kết theo mong muốn chủ quan.

Và một khi đưa ra cam kết, Ngân hàng Nhà nước bằng mọi cách để thực hiện - điều đã từng được “thử” ít nhất hai lần từ đầu năm đến nay.

Với năm 2014, điều có thể khẳng định lúc này, tiếp tục gia tăng nguồn lực dự trữ ngoại hối là một mục tiêu. Nếu đạt được mức 35 tỷ USD, tiến tới 40 tỷ USD như dự báo của chuyên gia HSBC, vị thế của Việt Nam nhìn từ bên ngoài hẳn sẽ thêm phần cải thiện. Và nếu vậy, một giá trị cụ thể là, khi hình ảnh tốt lên, chi phí tìm vốn bên ngoài sẽ dễ chịu hơn - con đường mà ngoài Chính phủ còn có nhiều doanh nghiệp thử sức.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có bất kỳ một kịch bản ngược nào được công bố hay đặt ra để suy xét cụ thể cho năm 2014: tình huống dự trữ ngoại hối giảm và tỷ giá biến động mạnh, hay áp lực đối với định hướng giữ ổn định tỷ giá. Bởi ngoài các cân đối nội tại, như trên, độ mở hội nhập rộng hơn đồng nghĩa với nhiều luồng gió thổi vào mạnh hơn, và không hẳn luôn là mát mẻ...