Thành công và hạn chế

Thời gian qua, thị trường tài chính Việt Nam đã hình thành và phát triển nhanh chóng, góp phần phân bổ hiệu quả nguồn vốn và thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sau một thời gian tăng trưởng mạnh mẽ, thị trường cũng đã biểu hiện một số khiếm khuyết có thể gây ra những rủi ro. Trước thực tế đó, Chính phủ và các cơ quan liên quan đã tiến hành những bước đi cần thiết để ổn định tình hình, làm tiền đề cho những cải cách cơ bản và dài hạn hơn. Cụ thể, tháng 03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254/2013/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015”; Đề án tái cơ cấu thị trường chứng khoán (TTCK) tại Quyết định 1826/QĐ-TTg tập trung vào tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán, tái cấu trúc thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư.

Kết quả của những nỗ lực trên là đã tái cơ cấu được một loạt TCTD yếu kém; thanh khoản của các TCTD này được cải thiện, chất lượng tài sản tốt hơn, vốn chủ sở hữu được bổ sung giúp các ngân hàng tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro và các mặt hoạt động khác như chiến lược, đầu tư… cũng được củng cố. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm, lạm phát đã được kiềm chế, tỷ giá hối đoái ổn định và dự trữ ngoại hối tăng. Chiến lược xử lý nợ xấu được thông qua và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) ra đời, góp phần tích cực vào quá trình lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, 20 công ty chứng khoán được tái cơ cấu, tỷ lệ an toàn tài chính, chất lượng tài sản của các công ty chứng khoán được nâng cao. Tỷ lệ đòn bẩy tài chính giảm mạnh, các tài sản có rủi ro cao và thanh khoản thấp, trong khi vốn khả dụng tăng cao.

Khuôn khổ hành lang pháp lý đối với hoạt động quản lý, giám sát của thị trường tài chính cũng dần hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển. Đối với hoạt động giám sát ngân hàng, đã có Thông tư 10/2012/ TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về xử lý sau thanh tra, giám sát đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Chỉ thị 03/NHNN về công tác thanh tra, giám sát; phòng, chống tham nhũng, sai phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng… Đối với hoạt động giám sát TTCK, có Luật Chứng khoán, các nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán… Trong lĩnh vực bảo hiểm, có Nghị định số 41/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm… Như vậy, có thể thấy, nền tảng cơ sở ban đầu cho giám sát hữu hiệu thị trường tài chính Việt Nam đã được hình thành và củng cố theo thời gian.

Những kết quả ban đầu của quá trình phát triển và tái cơ cấu thị trường tài chính thực sự tạo tiền đề để giải quyết những vấn đề mang tính nền tảng dài hạn của thị trường tài chính. Tuy nhiên, trước tác động của hậu khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu những bất ổn thị trường tài chính Việt Nam cũng đã bộc lộ. Trong đó, nổi lên những tồn tại về giám sát, quản lý như: Công tác giám sát, quản lý thị trường tài chính của Việt Nam hiện vẫn chưa theo kịp với xu thế phát triển của các tập đoàn tài chính thế giới. Trong việc chia sẻthông tin và sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình giám sát thị trường còn nhiều vướng mắc làm hạn chế khả năng giám sát của toàn hệ thống. Hành lang pháp lý cho hoạt động giám sát tài chính còn chưa đồng bộ và thiếu đầy đủ, chưa đáp ứng đầy đủ theo chuẩn quốc tế... Có thể viện dẫn cụ thể ở thị trường tiền tệ và TTCK của Việt Nam.

- Đối với thị trường tiền tệ: Hoạt động giám sát chủ yếu trên thị trường tiền tệ là giám sát các TCTD tham gia thị trường thông qua việc giám sát an toàn vĩ mô và vi mô. Đối với việc giám sát vi mô thường theo tiêu chí CAMELS: khả năng đáp ứng đủ vốn (C - Capital); Chất lượng tài sản có (A – Asset quality); Năng lực quản lý (M - Management); Khả năng sinh lời (E - Earnings); Khả năng thanh khoản (L - Liquidity) và sự nhạy cảm của rủi ro thị trường (S – Sensitivity to market risk). Trên cơ sở đó, cho điểm từng tiêu chí để làm căn cứ xếp loại ngân hàng. Kết quả này giúp cơ quan quản lý biết được những rủi ro tiềm ẩn của các ngân hàng thương mại (NHTM). Đồng thời, các NHTM cũng biết rõ “sức khỏe” của mình trong từng thời kỳ để có biện pháp khắc phục.

Tuy nhiên, do sự phát triển quá nóng của các TCTD, năng lực giám sát của cơ quan quản lý nhà nước chưa theo kịp tốc độ phát triển. Các chỉ tiêu giám sát từ xa theo CAMELS - những chỉ tiêu định lượng rất quan trọng nhưng mới được một số ngân hàng áp dụng theo chuẩn kế toán Việt Nam. Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ chủ yếu giám sát tính tuân thủ đối với các quy định pháp lý, chưa kết hợp với giám sát theo rủi ro, trong khi hoạt động ngân hàng ngày càng tinh vi, phát triển mạnh cả về quy mô và loại hình dịch vụ, nên rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động là rất lớn. Loại hình công ty cổ phần đầu tư tài chính có hoạt động ngân hàng nhưng lại chưa bị giám sát bởi luật các TCTD, luật chứng khoán. Đây là lỗ hổng lớn trong công tác quản lý giám sát.

Trước tác động, suy thoái kinh tế toàn cầu, những bất ổn thị trường tài chính Việt Nam cũng đã bộc lộ. Trong đó, nổi lên những tồn tại về giám sát, quản lý như: Công tác giám sát, quản lý thị trường tài chính chưa theo kịp với xu thế phát triển của thế giới; Hành lang pháp lý cho hoạt động giám sát tài chính còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ theo chuẩn quốc tế...

Hành lang pháp lý trong kinh doanh tiền tệ tuy đã phủ kín nhưng còn nhiều kẽ hở, trong khi việc giám sát hành vi kinh doanh của các chủ thể trên thị trường lại chưa được quan tâm. Vì thế, hành vi "lách" luật thường diễn ra ở một số lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, lãi suất và tỷ giá… Việc ngân hàng sử dụng các công ty con để luân chuyển vốn cũng như sở hữu chéo giữa ngân hàng với ngân hàng, giữa ngân hàng với doanh nghiệp phần nào làm xói mòn hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Theo 25 nguyên tắc giám sát của Basel, đến nay hoạt động giám sát của NHNN mới chỉ tập trung vào 6 nguyên tắc, cụ thể là nguyên tắc liên quan đến hoạt động giám sát đối với việc chuyển đổi quyền sở hữu của NHTM (nguyên tắc 4); các cuộc sáp nhập lớn của các NHTM (nguyên tắc 5); tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu (nguyên tắc 6); giới hạn tín dụng đối với khách hàng lớn (nguyên tắc 10); rủi ro thanh khoản (nguyên tắc 14) và kiểm toán, kiểm soát nội bộ của NHTM (nguyên tắc 17).

- Đối với thị trường chứng khoán: Giám sát TTCK là giám sát rủi ro, phòng ngừa những tình huống không mong đợi để thị trường phát triển lành mạnh và bền vững. Tuy nhiên, thực tế việc giám sát TTCK vẫn còn một số hạn chế: Việc chấp hành của các chủ thể tham gia thị trường không cao. Việc giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về TTCK chưa đáp ứng được những biến động nhanh nhạy của thị trường. Tương tự như lĩnh vực ngân hàng, các công cụ tài chính phái sinh ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng việc giám sát phát hành và giao dịch các công cụ này còn nhiều khiếm khuyết.

Giải pháp nâng cao quản lý, giám sát

Để bảo đảm sự an toàn và ổn định bền vững của thị trường tài chính trong điều kiện tái cơ cấu nền kinh tề và hội nhập quốc tế mạnh mẽ thì cải cách căn bản, toàn diện hệ thống quản lý, giám sát là hết sức cần thiết với một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần xây dựng chính sách vĩ mô ổn định và bền vững. Đây là một trong những điều kiện cơ bản tạo lập nền tảng vận hành ổn định và lành mạnh thị trường tài chính. Công tác điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cần có sự phối hợp hài hòa, chặt chẽ, hướng tới mục tiêu ổn định tài chính.

Thứ hai, cần thiết lập khuôn khổ xử lý rủi ro hệ thống, duy trì ổn định tài chính, xem đây là điều kiện tiên quyết cho nền kinh tế phát triển bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực giữa thị trường tài chính với nền kinh tế và ngược lại. Kiện toàn công tác giám sát tài chính với việc tiếp tục nỗ lực và kiên trì áp dụng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về giám sát tài chính đã ban hành. Đồng thời, xác lập khuôn khổ xử lý bất ổn tài chính, giảm bớt xác suất xảy ra đổ vỡ, đảm bảo quá trình giải thể diễn ra một cách có trật tự, hạn chế lan truyền rủi ro đến các định chế khác và thị trường tài chính. Do đó, công tác xử lý giải thể và cơ chế phối hợp hành động giữa các cơ quan hữu quan cần được xác định rõ ràng và thể chế hóa.

Thứ ba, chú trọng tới cơ sở hạ tầng tài chính phát triển. Hiện tại, về cơ bản, Việt Nam đã trang bị được một cơ sở hạ tầng tài chính tương đối đầy đủ để hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường tài chính như: Luật các TCTD, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Bảo hiểm, chuẩn mực kế toán VAS, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã được ban hành và chỉnh sửa ngày càng tiệm cận hơn với các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, cần đảm bảo an toàn, duy trì sự ổn định, lành mạnh của thị trường tài chính và xử lý khủng hoảng.

Thứ tư, tăng cường minh bạch thông tin bởi việc công bố thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến lợi ích của các thành viên tham gia thị trường. Việc thông tin cung cấp không đầy đủ và kịp thời sẽ gây ra những nhận định thiếu chính xác và gây thiệt hại đến cả nhà đầu tư lẫn doanh nghiệp, tổn hại nghiêm trọng đến lòng tin, sự lành mạnh và bền vững của thị trường. Thông tin cung cấp cần đảm bảo tính minh bạch, chính xác, có ý nghĩa và kịp thời tới các cơ quan quản lý, đối tác, nhà đầu tư và cộng đồng.

Thứ năm, phát triển đồng bộ thị trường tài chính và dịch vụ tài chính: Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; Tái cơ cấu và tăng cường quản trị rủi ro trong các TCTD và trong các CTCK, coi đây là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với các định chế tài chính; Tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động, vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán.

Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát và nâng cao năng lực, hiệu quả kiểm tra, thanh tra, giám sát; Nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của công tác kiểm tra, thanh tra tài chính trong các lĩnh vực. Cụ thể:

- Đối với Cơ quan thanh tra giám sát thuộc Ngân hàng Nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát thị trường dựa trên rủi ro, đồng thời thu hẹp các chuẩn mực trong nước với chuẩn quốc tế.

- Đối với giám sát an toàn vĩ mô, cần có sự phối hợp với Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia trong xây dựng và áp dụng các chỉ tiêu giám sát và ngưỡng cảnh báo an toàn vĩ mô, các mô hình định lượng và các quy chuẩn cũng như chỉ tiêu giám sát của các tập đoàn tài chính.

- Đối với Cơ quan thanh tra, giám sát thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, cần xây dựng cơ chế xử phạt và cảnh báo các công ty có hành vi thực hiện các giao dịch giả, thao túng thị trường. Công tác quản lý thị trường OTC cần được chú trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Cần trao thêm thẩm quyền và tính độc lập cho cơ quan thanh tra trong xử lý và cảnh báo các hành vi vi phạm kỷ luật thị trường.

- Đối với Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm, cần chú trọng thanh tra tại chỗ. Đối với hoạt động giám sát từ xa cần chuyển dần sang hướng phân tích rủi ro đối với hoạt động của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm.

- Đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, cần nâng cao hơn nữa vai trò của mình trong việc giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Tiến hành nhiều hơn kế hoạch thanh tra tại chỗ đối với các tổ chức nhận tiền gửi nhằm mục đích làm giảm rủi ro đạo đức của các tổ chức này khi các tổ chức này có ý định tham gia vào lĩnh vực kinh doanh rủi ro hơn. Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã được ban hành, với chức năng nhiệm vụ được giao, Bảo hiểm tiền gửi cần khẳng định rõ nét hơn vị thế của mình trong hệ thống giám sát tài chính.

Thứ bảy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ quan giám sát nói riêng và cho ngành Tài chính nói chung để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế; Có cơ chế đãi ngộ hợp lý, để một mặt thu hút được nguồn lực giỏi, mặt khác ngăn chặn rủi ro đạo đức nảy sinh; Xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành tài chính; Nâng cao hiệu quả của công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.

Tài liệu tham khảo:

1. Kỷ yếu Hội thảo Vai trò của thị trường vốn trong tái cấu trúc nền kinh tế (Ban Kinh tế Trung ương);

2. Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011- 2015” theo Quyết định 254/2013/QĐ-TTg; Đề án tái cơ cấu TTCK theo Quyết định 1826/QĐ-TTg;

3. Tạp chí Tài chính số 12/2013; tapchitaichinh.vn; www.sbv.gov.vn...

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát thị trường tài chính

ThS. TRẦN TUẤN ANH

(Tài chính) Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên, để phát huy vai trò trên đối với phát triển kinh tế, cần phải nâng cao quản lý, giám sát tốt và đưa thị trường này phát triển lành mạnh, an toàn…

Xem thêm

Video nổi bật