Giải pháp tái cơ cấu nông nghiệp từ góc nhìn chuyên gia

La Hoàn

(Tài chính) Để ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân, tạo động lực tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cần thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới.

Giải pháp tái cơ cấu nông nghiệp từ góc nhìn chuyên gia
“Tái cơ cấu nông nghiệp thành công chỉ khi chúng ta ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp”, Thủ tướng nhận định. Nguồn: internet

Gắn với xây dựng nông thôn mới

Phát biểu tại Hội nghị triển khai kế hoạch năm 2014 của Bộ NN&PTNT, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, tập trung đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm của ngành nông nghiệp; đây là nội dung quan trọng trong tái cơ cấu nền kinh tế, là đòi hỏi bức xúc cần phải được triển khai mạnh mẽ bằng nhiều giải pháp đồng bộ. Phải đặt người nông dân vào vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Thủ tướng nêu rõ, tái cơ cấu nông nghiệp là tổ chức lại sản xuất để có giá trị gia tăng cao hơn, đưa thu nhập của người làm nông nghiệp cao hơn, thu hẹp khoảng cách về thu nhập, phát triển giữa người dân nông thôn và người dân đô thị. Tái cơ cấu nông nghiệp phải gắn liền với xây dựng nông thôn mới, đây là 2 vấn đề gắn kết chặt chẽ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Muốn tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành công phải thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp. Trong đó, quan tâm đề ra cơ chế, chính sách hiệu quả, đẩy mạnh ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. “Tái cơ cấu nông nghiệp thành công chỉ khi chúng ta ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp”, Thủ tướng nhận định.

Hướng tới nền nông nghiệp công nghệ cao

Theo GS. TS Trần Đức Viên, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, những năm gần đây, khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu thì ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng đứng trước nhiều thách thức. Tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua vẫn chủ yếu theo hướng tăng diện tích, tăng vụ và thâm dụng các yếu tố đầu vào như: lao động, vốn, vật tư và và các nguồn lực tự nhiên khác. Các động lực cho sự tăng trưởng nông nghiệp dường như bị chững lại. Do đó, nông nghiệp, nông thôn, nông dân đang rất cần những động lực mới để tăng trưởng. GS. Viên nhấn mạnh đến tái cơ cấu nông nghiệp Việt Nam cần tập trung vào chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam ở thị trường trong nước và thế giới. Đồng thời, tái cơ cấu ngành nông nghiệp dựa vào quy hoạch lại quỹ đất nông nghiệp cả nước, ở từng vùng hướng tới phát triển sản xuất hàng hóa lớn, sản phẩm chủ lực. Đặc biệt, theo GS Viên, để phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp cần làm ngay việc tái cơ cấu trong giáo dục và đào tạo nông nghiệp, tái cơ cấu quản lý Khoa học công nghệ, tái cơ cấu trong chính sách và thể chế quản lý phát triển nông nghiệp và nông thôn. GS. Viên lưu ý,  tổ chức lại sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị nội địa và chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó có việc quy hoạch và chế biến sâu. Hiện nông dân bị điều khiển bởi thị trường nên họ sẵn sàng bỏ cây, chặt cây, nuôi con mới. Do đó, chúng ta phải có quy hoạch kiên định, có phát triển dài hạn, bám sát thị trường, không để sản xuất tự phát, gây thiệt thòi cho bà con nhân dân. "Kinh tế hợp tác nhưng không phải tất cả đều là cánh đồng mẫu lớn, mà là tăng tính hợp tác trong sản xuất. Tiếp theo là đẩy mạnh khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Chỉ khi làm chủ được khoa học công nghệ thì nông nghiệp mới có đột phá” - GS Viên khẳng định.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho rằng: Tái cơ cấu nông nghiệp cần xây dựng mô hình về công nghiệp hóa trong nông nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp để có thể sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại có giá trị gia tăng cao… Trên cơ sở hệ thống Luật pháp mới ban hành như Luật Đất đai thì thời gian tới, ngành khoa học công nghệ phải đầu tư theo chuỗi từ khâu giống đến khâu canh tác, bảo vệ thực vật, thu hoạch, bảo quản, chế biến và xuất khẩu.
Quy hoạch nền nông nghiệp theo hướng thị trường mở

GS. Đỗ Kim Chung, Học viện Nông nghiệp Việt Nam lưu ý, năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu nông nghiệp đạt trên 30 tỷ USD. Nhưng nhiều năm qua thì sụt giảm tăng trưởng. Tại sao nông nghiệp Việt Nam vẫn không tăng trưởng trong khi các nước xung quanh tiến lên? Tái cơ cấu đã 3 năm nhưng hiệu quả chưa rõ ràng? Theo GS. Chung, cần phải cấp thiết tái cơ cấu nông nghiệp thực sự hiệu quả. Việc tái cơ cấu nền nông nghiệp cần hướng tới việc thực hiện quy hoạch theo hướng thị trường mở. Cần thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp cả trong mục tiêu chung và dài hạn 50 hay 100 năm, để có chiến lược bảo tồn, sử dụng đất nông nghiệp trước khi thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp và đô thị.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp

TS Đào Thế Anh – Viện cây lương thực-cây thực phẩm, khuyến nghị cần thay đổi chính sách tái cơ cấu chuỗi giá trị lúa gạo, phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp. Theo TS Anh, tiềm năng của khu vực xay xát-chế biến cần được phát triển, hiện đại hóa để tích tụ cả nguyên liệu và thành phẩm, hình thành các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu, thiết bị chế biến hiện đại, có thị trường đầu ra ổn định, đảm bảo chất lượng thành phẩm. Có thể coi đây là lựa chọn chiến lược quyết định tương lai, vị thế của ngành lúa gạo Việt Nam. “Cả nông dân và doanh nghiệp cần được tăng cường năng lực về kỹ năng kinh doanh nông sản và quản lý chất lượng, kỹ năng quản lý tổ chức nông dân và hợp tác để có thể phát triển các chuỗi giá trị chất lượng. Đây là chính sách cần ưu tiên hàng đầu để có được lực lượng nông dân tiến lên chuyên nghiệp sản xuất nông sản chất lượng cao”, TS Anh đề xuất.

PGS. TS Chu Tiến Quang – Viện Kinh tế và quản lý Trung ương, cho rằng việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Theo ông Quang, việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020 cần được bắt đầu dựa trên cơ sở rà soát lại cơ cấu cây trồng vật nuôi trên từng vùng sản xuất, trong đó xác định rõ quy mô, diện tích cây trồng vật nuôi có năng lực cạnh tranh sẽ tiếp tục được duy trì, quy mô diện tích các loại cây trồng  không có năng lực cạnh tranh sẽ phải thay đổi bằng cây trồng, vật nuôi có năng lực cạnh tranh hơn. Việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cần dựa trên cơ sở quy hoạch lại quỹ đất nông nghiệp cả nước ở từng vùng vào phát triển hàng hóa lớn, tập trung theo từng sản phẩm chủ lực, trước mắt là các sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu như: Lúa gạo, cà phê, cao su, chè, tiêu, tôm, cá… “Cần chú trọng việc chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân từ truyền thống, nhỏ lẻ sang hàng hóa với quy mô hợp lý trên mỗi hộ gia đình và toàn vùng thông qua hình thành các tổ chức kinh tế của nông dân như tổ nhóm hợp tác xã, hiệp hội sản xuất và các mối liên kết giữa hộ nông dân và các tổ chức sản xuất kinh doanh… Bên cạnh đó, có chính sách bảo hiểm rủi ro cho nông dân trong tái cơ cấu nông nghiệp nhằm giúp người sản xuất nông nghiệp khắc phục và bù đắp thiệt hại về tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra trong quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020", ông Quang đề nghị.

Đơn vị sản xuất ở cơ sở phải thay đổi

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân khẳng định, để tái cơ cấu nền nông nghiệp thì yếu tố cơ bản là đơn vị sản xuất ở cơ sở phải thay đổi. Thực tế lâu nay hộ là đơn vị sản xuất ở cơ sở. Với khoảng 10 triệu hộ sản xuất ở cơ sở trong quá trình hội nhập quốc tế nếu không có tổ chức thì sẽ rối loạn không thể xuất khẩu cũng như cạnh tranh được với hàng hóa bên ngoài. Chính vì vậy việc tái cơ cấu nền nông nghiệp phải bắt đầu từ tái cơ cấu đơn vị sản xuất cơ bản của Việt Nam đó là hợp tác xã, hoặc liên kết giữa hộ và doanh nghiệp. Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng nhấn mạnh: Việc tái cơ cấu nền nông nghiệp phải bắt đầu từ việc tái có cấu hệ thống thu mua sản phẩm nông nghiệp của nông dân, tái cơ cấu thị trường cung cấp đầu vào và thu mua sản phẩm nông nghiệp. Đây là bài toán cấu trúc về kinh tế. Chừng nào không tái cấu trúc đầu vào, đầu ra người nông dân còn bị 2 “gọng kìm” này ép chặt và thu nhập sẽ chạy sang hai đầu chứ không dành cho người nông dân. Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng lưu ý, phải xác định được những sản phẩm quốc gia, thiết lập mối quan hệ tốt giữa khoa học với nông dân để đưa những kết quả khoa học đến với nông dân một cách hiệu quả nhất cũng như phải hình thành thị trường bảo hiểm nông nghiệp, tái cơ cấu chi của nhà nước cho nông nghiệp. Do đó, tái cơ cấu nông nghiệp cần thiết lập mối quan hệ mới giữa khoa học - doanh nghiệp - nông dân thông qua tổ chức trung gian để hiệu quả đến nông dân được cao nhất. Đồng thời hình thành thị trường bảo hiểm nông nghiệp; tái cơ cấu chi của nhà nước cho nông nghiệp.

Hoàn thiện chính sách đất đai, chính sách đầu tư

Theo GS. TS. Vương Đình Huệ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, để ngành nông nghiệp Việt Nam thật sự bứt phá, đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, cần tập trung giải quyết 3 thách thức, mâu thuẫn lớn trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp ở nước ta hiện nay: Trước hết là thách thức, mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng đội ngũ nông dân hiện đại, chuyên nghiệp với thực trạng thu nhập thấp của lao động nông nghiệp hiện nay ngày càng rõ nét; Thứ hai là thách thức, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hiện đại quy mô lớn, cạnh tranh, giá trị gia tăng cao với thực trạng đất đai manh mún, chỉ phù hợp với sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ; Thứ ba là thách thức, mâu thuẫn giữa nhu cầu cao về vốn đầu tư để hiện đại hóa nông nghiệp với hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp còn thấp, rủi ro cao, chưa hấp dẫn. Rất khó thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước và vốn FDI vào sản xuất nông nghiệp, do những nguyên nhân như: hiệu quả đầu tư thấp, rủi ro cao; đầu tư vào nông nghiệp kém an toàn do thời gian giao đất còn ngắn, quy hoạch sử dụng đất không ổn định...Những mục tiêu khi tái cơ cấu nông nghiệp cần chú trọng vào những nội dung chủ yếu sau: Chú trọng mục tiêu tái cơ cấu nhằm xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên, liên kết chặt chẽ với chuỗi giá trị toàn cầu, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập của nông dân, đảm bảo an ninh lương thực - thực phẩm, ổn định xã hội. Mục tiêu tái cơ cấu còn nhằm tạo ra mối liên kết chặt chẽ, hiệu quả, hài hòa và hợp lí giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, giữa đô thị và nông thôn, giữa giai cấp công nhân và nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tái cơ cấu cũng nhằm tạo ra sự thay đổi phù hợp về quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, hoàn thiện vai trò của Nhà nước trong ngành nông nghiệp về đầu tư, phân bổ nguồn lực, quản lí đất đai, cung ứng dịch vụ công, quản trị chuỗi ngành hàng, thị trường… để nông dân và doanh nghiệp trở thành chủ thể và động lực trong đầu tư và phát triển sản xuất. 

Khi thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp cần phải lưu ý đến 3 nội dung  hết sức quan trọng, đó là: tái cơ cấu không gian sản xuất nông nghiệp; tái cơ cấu chuỗi ngành hàng nông sản và tái cơ cấu đối tượng tham gia sản xuất nông nghiệp. Trong đó, tái cơ cấu không gian sản xuất nông nghiệp có vị trí quan trọng nhất. Thực tế cho thấy, trên mỗi vùng của đất nước, nông nghiệp có lợi thế và chức năng, vai trò kinh tế, xã hội, sinh thái môi trường khác nhau. Do vậy, cần thiết có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với từng vùng. Quá trình tái cơ cấu cần định hình rõ cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển các mô hình sản xuất phù hợp theo vùng miền. Theo đó, có thể phân chi thành các khu vực như: Khu vực phát triển ngành hàng nông nghiệp hiện đại, tập trung quy mô lớn: Đây là khu vực có quy mô sản xuất lớn và hiện đại, dùng những tiêu chuẩn hiện đại nhất về sản xuất, quản trị nông nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng về kinh tế, có chuỗi thương mại mạnh được quản trị tốt, có thương hiệu, giá trị gia tăng cao; Khu vực phát triển ngành hàng nông nghiệp sinh thái, tự nhiên: Tại các khu vực miền núi, ven biển, nông nghiệp đồng thời có chức năng kinh tế và chức năng sinh thái, cần xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng quản trị chặt chẽ về sinh thái, không đòi hỏi mức độ thâm canh cao; Khu vực phát triển ngành hàng nông nghiệp chỉ dẫn địa lý: Những khu vực mà chất lượng sản phẩm nông sản có tính đặc thù xuất phát từ hệ sinh thái và văn hóa bản địa, có sự khác biệt rõ nét so với sản phẩm cùng loại từ địa phương khác, thì có thể quy hoạch phát triển vùng sản xuất chỉ dẫn địa lý; Khu vực phát triển ngành hàng nông nghiệp kết hợp an ninh, quốc phòng; Khu vực sản xuất nông hộ quy mô nhỏ: Đây là mô hình phổ biến hiện nay và vẫn sẽ tồn tại trong thời gian dài ở nhiều vùng, do sinh kế của người dân vẫn dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp; Khu vực tổ chức cụm liên kết sản xuất công, nông nghiệp và dịch vụ (Cluster): Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể quốc gia, vùng, tỉnh về mạng lưới cụm công- nông nghiệp-dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Đây chính là việc cụ thể hóa Nghị quyết 26-NQ/TW khóa X về mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa đô thị và nông thôn.

Để tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành công phải thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp. Trong đó, cần quan tâm tập trung thực hiện tốt 4 giải pháp khi thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, đó là: Cơ chế, chính sách đất đai; Cơ chế, chính sách đầu tư cho nông nghiệp và hỗ trợ nông dân; Cơ chế, chính sách phát triển chuỗi ngành hàng nông sản; Cơ chế, chính sách đổi mới toàn diện hệ thống quản lý, dịch vụ công cho nông nghiệp. Đối với cơ chế, chính sách đất đai, Nhà nước cần tập trung và tích tụ đất đai có quy mô đủ lớn, ổn định lâu dài, phù hợp với các mô hình sản xuất khác nhau của từng vùng, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại. Triển khai các quy hoạch đất đai theo vùng. Nghiên cứu cơ chế, chính sách quy hoạch và quản lý quy hoạch đất theo 7 vùng kinh tế - xã hội hoặc 8 vùng sinh thái, đảm bảo có chiến lược phát triển theo vùng, khắc phục nhược điểm không gian kinh tế bị không gian hành chính chia cắt như hiện nay. Liên kết giữa các lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp và giữa các lĩnh vực nông nghiệp trong một vùng. Để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách mới về đất đai theo hướng sau: Một là, ban hành cơ chế, chính sách làm rõ cơ sở pháp lý về hộ nông dân, nhất là hộ kinh tế nông trại quy mô lớn và quyền, lợi ích trong sử dụng đất, thu hồi đất, sử dụng quyền sử dụng đất trong thừa kế, vay vốn tín dụng, tham gia liên doanh, liên kết, đóng góp cổ phần. Hai là, qui hoạch đất đai nông nghiệp ổn định, đồng bộ với quy hoạch dịch vụ, tổ chức khoa học và công nghệ, thương mại, công nghiệp chế biến ... thành những cụm công - nông nghiệp. Ba là, giao đất lâu dài cho nông dân, từ 50 năm đến 70 năm; ở các vùng nông nghiệp ổn định nên giao lâu dài. Bốn là, cần quy hoạch quy mô lớn/hộ sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ tích tụ và tập trung ruộng đất để phát triển mô hình nông nghiệp hiện đại, tập trung quy mô lớn ở những vùng công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh, lao động đã rút đáng kể ra khỏi nông nghiệp. Nhà nước nên thử nghiệm quy hoạch vùng nông nghiệp hiện đại riêng biệt, có quy mô từ vài trăm đến hàng ngàn ha, để hình thành kinh tế nông trại có quy mô lớn, sản xuất và quản lý, thương mại hoàn toàn theo tiêu chuẩn hiện đại. Có các giải pháp thúc đẩy mạnh nông dân tự nguyện dồn điền đổi thửa, tích tụ và tập trung ruộng đất thành cánh đồng mẫu lớn. Thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất cùng với phát triển liên kết ngang giữa nông dân cũng như giữa nông dân và doanh nghiệp. Năm là, cần có quy định công nhận đơn vị sản xuất hộ nông dân, kinh tế nông trại, định nghĩa rõ và xác định ai là nông dân thì sẽ giao đất, không là nông dân thì Nhà nước có thể thu hồi và đền bù theo quy định của Luật Đất đai để giao đất cho nông dân là người trực tiếp và liên tục làm nông nghiệp, hạn chế việc có quyền sử dụng đất nhưng không trực tiếp sản xuất mà "phát canh thu tô", kể cả ở một số công ty nông, lâm nghiệp hiện nay.