Kế toán tài chính, kế toán quản trị và chính sách thuế ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp

ThS. Nguyễn Thị Hường – Học viện Tài chính

Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp, là tổ chức việc thu nhận, hệ thống hóa và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp,phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán, các quy định của hiệp hội nghề nghiệp kế toán. Ở Việt Nam hiện nay, việc tổ chức công tác kế toán phải tuân thủ luật kế toán, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp luật có liên quan khác.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.

Ở nước ta, xây dựng pháp lý dựa trên cơ sở luật dân sự gồm hai mô hình: Khuôn khổ pháp luật theo kiểu luật La Mã (luật dân sự hay luật riêng) và mô hình luật chung, bao gồm: Luật kế toán, nghị định hướng dẫn và dưới luật là Chuẩn mực kế toán (đi vào nội hàm nội dung của kế toán) và cuối cùng là Chế độ kế toán, quy định các vấn đề cụ thể đối với từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Khuôn khổ pháp luật theo kiểu luật chung bao gồm: Luật kế toán (hay các văn bản có giá trị tương đương) tiếp đến là hệ thống chuẩn mực kế toán và cuối cùng là các văn bản giải thích cho chuẩn mực kế toán.

Đối với một số quốc gia như Mỹ, họ không có luật kế toán mà chỉ có những quy định về Ủy ban chứng khoán có điều khoản quy định về kế toán. Họ cho rằng các doanh nghiệp có thể tự tổ chức hạch toán kế toán sao cho vừa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, vừa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với cơ quan nhà nước.

Phần lớn các quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam đều có các quy định về kế toán cho doanh nghiệp. Các vấn đề này đều ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp đó là: hệ thống kiểm soát nội bộ, yêu cầu và khả năng ứng dụng thông tin và các dịch vụ tài chính kế toán.

Mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị:

Kế toán là một hệ thống thông tin đo lường, xử lí và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường, xử lí và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao nhất.

Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính, thông tin của kế toán tài chính ngoài việc sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê…

Mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị được xử lý như thế nào?

- Về mặt lịch sử: Sự phân chia kế toán quản trị và kế toán tài chính xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVIII - XIX. Ở thời kì này mọi biến động của kế toán đều xuất hiện cùng với biến động kinh tế, cụ thể là Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu làm quy mô hoạt động kinh doanh lớn lên.

Vì vậy, không thể làm kế toán như kế toán tĩnh nữa, yêu cầu thông tin kế toán phải phong phú hơn, đa dạng hơn, các nhà quản lý cần thông tin đó để phục vụ cho quản lý, ra quyết định và hình thành các công ty cổ phần dẫn đến sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người điều hành, phần lớn các chủ sở hữu là hàng rào ngoài doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành. Họ cử đại diện của mình vào quản lý và nắm bắt thông tin và pháp lệnh Nhà nước yêu cầu người quản lý phải thông tin cho chủ sở hữu.

Thông tin cung cấp cho người quản lý điều hành là Kế toán quản trị, thông tin cung cấp cho chủ sở hữu là Kế toán tài chính. Ban đầu Kế toán tài chính chủ yếu phục vụ cho chủ sở hữu, sau đó xuất hiện các bên liên quan như: Chủ nợ, nhà đầu tư, khách hàng, Nhà nước (cơ quan Thuế). Vì vậy, thông tin kế toán tài chính phải được chính xác.

- Các mô hình xử lý mối quan hệ giữa Kế toán tài chính và Kế toán quản trị:

+ Mô hình Nhất nguyên (Mô hình của các nước Anh và Mĩ)

Theo mô hình này, cả Kế toán tài chính và Kế toán quản trị đều được tổ chức theo loại hình Kế toán động. Kế toán tài chính và Kế toán quản trị được thực hiện kết hợp với nhau tùy theo từng doanh nghiệp mà có mức độ kết hợp khác nhau.

+ Mô hình Nhị nguyên: Kế toán tài chính theo xu hướng loại hình Kế toán tĩnh, còn Kế toán quản trị thì theo xu hướng loại hình Kế toán động.

Hệ quả của mô hình này dẫn đến về mặt tổ chức thì Kế toán tài chính và Kế toán quản trị được tổ chức độc lập với nhau. Sự độc lập này chỉ mang tính tương đối, không có sự độc lập tuyệt đối. Đây là mô hình của các nước châu Âu, thuộc địa.

Mối quan hệ giữa hệ thống kế toán với chính sách thuế và sự ảnh hưởng của nó đến công tác kế toán trong doanh nghiệp

Để hiểu được mối quan hệ này cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng:

- Thị trường chứng khoán: Là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến mối quan hệ này và là nhân tố ảnh hưởng đến thông tin của kế toán tài chính. Thị trường chứng khoán phát triển thì khi đó hệ thống kế toán và chính sách thuế có xu hướng cách biệt nhau. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán họ cần thông tin kế toán và thông tin này phải phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp, họ không chấp nhận kế toán theo luật thuế, vì luật thuế phản ánh tốc độ và mục tiêu của Nhà nước.

Ở những quốc gia mà thị trường chứng khoán chưa phát triển cụ thể như Việt Nam thì kế toán luôn luôn nhìn xem góc độ thuế quy định như thế nào? Yêu cầu luật thuế ra sao? Để thực hiện theo. Vì vậy, các quy định về kế toán và chính sách thuế có sự tương đồng nhiều hơn.

- Cấu trúc pháp luật:

+ Hệ thống luật chung: Những nước theo hệ thống luật này thì giữa kế toán và chính sách thuế có xu hướng tách biệt.

+ Hệ thống luật dân sự (Luật riêng - Luật La Mã). Những nước theo luật này thì giữa kế toán và chính sách thuế có xu hướng tương đồng.

Ở Việt Nam: Luật Kế toán được ban hành vào năm 2003 và sửa đổi năm 2015. Các quy định về kế toán và thuế rất tổng quát, cả trong thực tiễn và khuôn khổ pháp luật thì mối quan hệ giữa kế toán và chính sách thuế có xu hướng xích lại gần nhau hơn và xu hướng đánh giá là đi vào mô hình đồng nhất nhưng có lúc lại theo mô hình tách biệt. Vì vậy, Việt Nam đang ở thế chung chiêng không rõ ràng cụ thể là mô hình nào?

Chính sách thuế được xem là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác kế toán. Công tác kế toán phục vụ chủ yếu cho việc quản lý nhà nước, trong đó có cơ quan thuế. Công việc ghi nhận và đo lường kế toán thường dựa trên cơ sở quy định của thuế, dẫn đến không có sự khác biệt giữa lợi nhuận kế toán và thuế.

Nhận thức đó đã ăn sâu và tác động rất lớn vào hành vi của người làm kế toán. Dù các năm gần đây đã thay đổi tác động của thuế đối với kế toán rất nhiều nhưng kết quả thực tế cho thấy kế toán và thuế luôn tương đồng.

Từ các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa kế toán và thuế ta thấy mối quan hệ giữa chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán luôn là vấn đề được các nhà xây dựng chính sách của các quốc gia đặc biệt quan tâm.

Nghiên cứu lịch sử thông lệ kế toán và chính sách thuế các nước có thể thấy tồn tại hai quan điểm (mô hình) về mối quan hệ này và hai mô hình này ảnh hưởng rất nhiều đến tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp.

Mô hình đồng nhất (sự thống nhất giữa chính sách thuế và kế toán)

Theo quan điểm này, các quy định của chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán liên quan có sự thống nhất với nhau. Thông tin kế toán được sử dụng trực tiếp cho mục đích tính thuế mà không cần thực hiện điều chỉnh. Quan điểm này có sự thống nhất giữa chính sách kế toán và chính sách thuế, nên giảm thiểu được sự phức tạp trong việc sử dụng thông tin kế toán cho mục đích kê khai, quyết toán thuế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa.

Ngoài ra, sự thống nhất giữa chính sách thuế và kế toán cũng đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, quản lý tập trung của Nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thống nhất chính sách kế toán và chính sách thuế có thể dẫn đến thông tin kế toán chủ yếu đặt trọng tâm vào mục tiêu tính thuế nên sẽ giảm tính hữu ích đối với các chủ thể sử dụng thông tin khác. Hạn chế này càng bộc lộ rõ trong điều kiện thực hiện nền kinh tế toàn cầu.

Vì vậy, hiện nay quan điểm này ít được áp dụng khi xây dựng chính sách thuế và kế toán của các quốc gia.

Mô hình tách biệt

Theo đó, các quy định của chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán có sự độc lập tương đối. Thông tin kế toán được cung cấp cho các đối tượng sử dụng khác nhau và cần thực hiện điều chỉnh cho mục đích tính nghĩa vụ thuế. Quan điểm này đảm bảo chính sách kế toán và chính sách thuế được xây dựng theo các mục tiêu khác nhau, phù hợp với đặc thù của từng chính sách.

Với tư cách là một công cụ điều tiết kinh tế, chính sách thuế hướng đến mục tiêu điều tiết kinh tế vĩ mô và đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, phù hợp với mục tiêu phát triển và các chính sách kinh tế khác. Trong khi đó, hệ thống kế toán được xây dựng nhằm cung cấp thông tin tài chính thích hợp và tin cậy cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin, nhằm giúp chủ thể ra các quyết định kinh tế phù hợp.

Vì vậy, thông tin kế toán cần đảm bảo tính trung lập, không nhất thiết thiên về mục đích tính thuế của đơn vị. Ngược lại, sự khác biệt giữa chính sách thuế và kế toán làm gia tăng tính phức tạp cho công tác kế toán tại các đơn vị, cũng như sự phức tạp trong việc sử dụng thông tin kế toán để kê khai, quyết toán thuế. Về phương diện quản lý nhà nước sự khác biệt giữa chính sách kế toán và chính sách thuế cũng gây ra những khó khăn, phức tạp nhất định đối với công tác quản lý, kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ thuế của các đơn vị.

Qua phân tích 2 quan điểm trên, có thể nhận thấy việc lựa chọn vận dụng quan điểm nào để xây dựng chính sách thuế trong mối quan hệ với hệ thống kế toán đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Trong điều kiện hiện nay, các quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, quan điểm xây dựng chính sách thuế có sự độc lập tương đối với chính sách kế toán là phổ biến, vì những lý do sau đây:

Một là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế có lợi ích khác nhau. Nhu cầu đối với thông tin kế toán ngày càng đa dạng đòi hỏi hệ thống kế toán phải được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo tính tin cậy và trung lập giữa các đối tượng. Hệ thống kế toán không thiên về mục đích tính thuế.

Hai là, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế các nước dẫn đến việc hài hòa các chuẩn mực kế toán diễn ra mạnh mẽ theo định hướng của hệ thống chuẩn mực kế toán và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho dù mức độ phát triển kinh tế - xã hội ở các nước là khác nhau. Ngược lại, chính sách thuế chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế - xã hội, chính sách quản lý kinh tế cụ thể ở từng quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Xu hướng hài hòa mang tính toàn cầu về chính sách thuế thường diễn ra chậm hơn so với hệ thống kế toán.

Ba là, sự phát triển nhanh chóng và ngày càng phức tạp của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề kế toán phức tạp. Kế toán hiện đại có xu hướng coi trọng tính thích hợp của thông tin và “mô phỏng” tình hình tài chính và kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngược lại, để thực hiện được chức năng của mình, chính sách thuế vẫn thiên về sử dụng thông tin kết quả thực hiện trong quá khứ của doanh nghiệp.

Hài hòa giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán trong xu hướng toàn cầu

Sự khác biệt giữa chính sách thuế nói chung và chính sách thuế TNDN nói riêng với hệ thống kế toán mang tính tất yếu trong điều kiện các nước đều thực hiện nền kinh tế thị trường và trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế.

Trên thực tế, sự khác biệt này đang trở nên phổ biến trong những năm gần đây cùng với việc hệ thống kế toán có những thay đổi mạnh mẽ, liên quan đến việc sử dụng cách tiếp cận giá trị hợp lý và coi trọng đến kế toán dự phòng rủi ro.

Các nhà quản lý kinh tế lo ngại rằng, sự khác biệt quá lớn giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán có thể làm gia tăng tính phức tạp của thông tin kế toán đối với người sử dụng, phát sinh thêm chi phí đối với các doanh nghiệp trong quá trình xử lý, thông tin kế toán phục vụ cho mục đích tính thuế.

Các cơ quan quản lý thuế nhà nước cũng quan ngại về những khó khăn sẽ nảy sinh trong quá trình quản lý và kiểm soát nghĩa vụ thuế của các đơn vị. Vấn đề hài hòa các quy định của chính sách thuế và hệ thống kế toán một cách hợp lý lại được đặt ra đối với các nhà nghiên cứu và ban hành chính sách.

Ở Mỹ và một số nước Châu Âu đã có những ủy ban độc lập nghiên cứu và đưa ra ý kiến tư vấn khi các chuẩn mực kế toán, chính sách thuế TNDN được ban hành, nhằm hài hòa một cách hợp lý các chính sách này. Ở một số nước khác, Chính phủ yêu cầu các tổ chức nghề nghiệp ban hành chuẩn mực kế toán và cơ quan thuế định kì tổ chức các cuộc họp, hội thảo nhằm xác định và xử lý các vấn đề còn xung đột giữa chuẩn mực kế toán và chính sách thuế.

Những động thái gần đây cho thấy, xu hướng hài hòa một cách hợp lý chính sách thuế và hệ thống kế toán là hiện hữu và sẽ tiếp tục được đặt ra trong thời gian tới trên phạm vi toàn cầu.

Hài hòa chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam

Kể từ khi thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo định hướng kinh tế thị trường, nhất là trong những năm gần đây. Chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng phù hợp hơn với cơ chế quản lý mới và hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cùng với xu thế này, sự khác biệt giữa chính sách thuế và hệ thống chuẩn mực, chế độ kế toán đã xuất hiện và ngày càng trở nên rõ ràng.

Sự khác biệt giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam còn trở nên sâu sắc hơn, khi hệ thống kế toán tiếp tục hội nhập sâu hơn với thông lệ kế toán quốc tế. Thực tế này sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng cũng như việc chấp hành chế độ chính sách tại các doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần hài hòa một cách hợp lý sự khác biệt giữa chúng, trong đó cần quan tâm giải quyết một số nội dung cơ bản.

Trước xu hướng hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, chính sách thuế và chính sách kế toán cần được đổi mới một cách đồng bộ trong mối quan hệ mất thiết, kế thừa với nhau. Các cơ quan soạn thảo và hoạch định chính sách thuế và chính sách kế toán, cần tăng cường trao đổi, hội thảo để xác định và từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các chính sách một cách hợp lý.

Trong quá trình soạn thảo các chính sách cần tăng cường các kênh phản biện, góp ý chính sách của các nhà nghiên cứu có sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị để đảm bảo các chính sách bám sát thực tiễn, đồng thời có sự hài hòa với nhau trong quá trình triển khai áp dụng trong thực tiễn.