Đẩy mạnh mô hình hợp tác xã kiểu mới:

Khâu đột phá để tái cơ cấu nông nghiệp

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN Nguyễn Thiện Nhân

(Taichinh) - Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2011, nước ta có 11,9 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, trong đó 35% số hộ có diện tích canh tác dưới 0,2ha; có 69% số hộ có diện tích dưới 0,5ha và 80% số hộ nông dân có diện tích canh tác dưới 1ha; chỉ 20% có diện tích trên 1ha…

Trong tổng số hơn 51 triệu lao động nông nghiệp thì 97,25% không được đào tạo về nghề nghiệp. Nguồn: internet
Trong tổng số hơn 51 triệu lao động nông nghiệp thì 97,25% không được đào tạo về nghề nghiệp. Nguồn: internet

Trong tổng số hơn 51 triệu lao động nông nghiệp thì 97,25% không được đào tạo về nghề nghiệp, chỉ có 1,5% đào tạo trình độ sơ cấp, 1,23% trình độ sơ cấp và 0,21% trình độ cao đẳng, đại học.

Như vậy, lực lượng chủ lực của con người nước ta là nông dân với bình quân chỉ có 2 lao động hầu như chưa qua đào tạo nghề, diện tích đất thì 80% dưới 1ha, thiếu vốn thường xuyên, nếu canh tác độc lập riêng lẻ thì sức mạnh kinh tế của họ rất nhỏ bé, khả năng chịu rủi ro rất nhỏ, thoát nghèo rồi trở lại nghèo rất dễ dàng.

Để liên kết hộ nhỏ lẻ thành các đơn vị kinh tế lớn hơn từ lâu chúng ta đã có chủ trương chỉ đạo hình thành các hợp tác xã. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, có một thời gian dài nhận thức về bản chất và vai trò của hợp tác xã trong nông nghiệp chưa phù hợp với quy luật của hợp tác xã trong nước trong hơn 100 năm qua. Vì vậy, tác dụng và hiệu quả của hợp tác xã còn nhiều hạn chế.

10 triệu hộ nông dân đơn lẻ là 10 triệu hộ nông dân yếu thế

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương, hiện cả nước có hơn 10 nghìn hợp tác xã, thu hút khoảng 45% số lao động. Khoảng 10% số hợp tác xã này làm ăn hiệu quả, trong đó, chỉ có 9% hợp tác xã quan tâm tiêu thụ sản phẩm cho xã viên, còn 70% hợp tác xã hoạt động trung bình, 20% - 30% hoạt động kém hoặc đã ngừng hoạt động.

Do các hợp tác xã chỉ cung cấp một số đầu vào cho xã viên như giống, phân bón, thức ăn, hơn 90% hợp tác xã không quan tâm tới điều xã viên quan tâm nhất là tiêu thụ sản phẩm.

Như vậy, hiện nay các hợp tác xã hoạt động hiệu quả chỉ liên kết hỗ trợ được khoảng 5% cho hộ nông dân cả nước, còn 95% số hộ thực chất sản xuất theo phương thức tự quyết định trồng cây gì, nuôi con gì, bán sản phẩm không hợp đồng cho người mua tư nhân, không biết trước ai sẽ mua, mua giá nào, mua bao nhiêu.

Do tổ chức hợp tác xã còn rất khác nhau ở các địa phương nên quy mô, dịch vụ hợp tác xã cũng rất khác nhau. Ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, nhiều hợp tác xã được thành lập từ nhiều năm qua có quy mô 1 hợp tác xã 1.000 xã viên. Trong khi hầu hết hợp tác xã thành lập trong 5 năm qua ở Hà Tĩnh chỉ có 7 - 20 xã viên…

Trong bối cảnh 95% các hợp tác xã, xã viên không được dự báo nhu cầu sản phẩm, quy hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho họ thì các đòi hỏi rất hợp lý về lý thuyết, các chính sách hỗ trợ cho nông dân và các đòi hỏi của hội nhập quốc tế đối với gần 10 triệu hộ nông dân là không khả thi.

Với quy mô bình quân 2 lao động với diện tích bình quân 0,2ha, 97% không qua đào tạo nghề nghiệp thì các hộ này không thể nghiên cứu thị trường, không thể dự báo thị trường, kế hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường. Chúng ta đòi hỏi nông dân phải sản xuất theo nhu cầu thị trường, nhưng thực tế, gần 10 triệu hộ nông dân này không thể biết nhu cầu thị trường là gì, là bao nhiêu, ở đâu. Chỉ có hợp tác xã và các doanh nghiệp có bộ phận chuyên trách về phân tích thị trường và xử lý thông tin thị trường qua các cơ quan nhà nước cung cấp, thì mới biết thị trường là thế nào.

Hộ nông dân với 2 lao động, đất không quá 1ha, không có thế chấp gì, không có tư cách pháp nhân, không thể làm đối tác thực sự của các ngân hàng để cho vay theo chính sách ưu đãi của Nhà nước.

Ngân hàng không thể cho vay 10 triệu hộ như vậy mà tin rằng có thể thu hồi vốn ở hầu hết các trường hợp. Chỉ khi các hộ liên kết lại thành hợp tác xã, hợp tác xã hướng dẫn xã viên sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng hợp tác xã đã ký kết, giám sát giúp áp dụng kỹ thuật, giống mới, thì các ngân hàng mới sẵn sàng cho họ vay thông qua sự bảo đảm của hợp tác xã. Hiện nay, việc các hộ ngư dân vay để đóng tàu mới cũng đã có yêu cầu hộ ngư dân phải là thành viên của hợp tác xã hoặc tổ sản xuất của ngư dân trên biển.

Hộ nông dân 2 lao động, đất không quá 1ha, không có tư cách pháp nhân, không có vốn, không thể có tư thế để đàm phán với người bán đầu vào sản xuất như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Họ mua ít, nhỏ lẻ, đến vụ phải mua vì không mua, khi quá thời vụ sẽ bị ép, giá mua cao là tất yếu.

Họ cũng không thể đàm phán với tư thương, tư nhân để mua đầu vào vì họ bán rất ít sản phẩm, bán nhỏ lẻ, đến vụ phải thu hoạch, nên họ phải bán để trả nợ cho vay đầu vào khi vào vụ sản xuất, để lâu thì càng giảm giá.

Cho nên, hộ nông dân bị ép giá bán đầu ra thấp là tất yếu. Thị trường đầu vào và đầu ra các sản phẩm nông nghiệp nước ta thực chất không là thị trường cạnh tranh, mà là thị trường do người bán đầu vào, người mua đầu ra chi phối. Nông dân lép vế, không bình đẳng, chỉ có hợp tác xã với sức mua gấp hàng chục, hàng trăm hộ mới có sức mạnh kinh tế để lựa chọn doanh nghiệp bán đầu vào và mua đầu ra, đàm phán giá cả. 10 triệu hộ nông dân đơn lẻ là 10 triệu hộ nông dân yếu thế trên thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.

Nếu bình quân cứ 100 - 300 hộ sẽ thành lập hợp tác xã, thì từ 10 triệu hộ nông dân sẽ hình thành 33 nghìn đến 100 nghìn hợp tác xã là các pháp nhân kinh tế, có sức mạnh kinh tế để thực sự tạo ra các thị trường đầu vào, đầu ra có tính cạnh tranh.

Chủ thể quan trọng nhất trong tái cơ cấu nông nghiệp phải là hợp tác xã

Chúng ta nói các doanh nghiệp phải liên kết với nông dân để tiêu thụ sản phẩm và chế biến thương phẩm, song một doanh nghiệp khó mà cùng một lúc liên kết với 1.000 hoặc 5.000 hộ nông dân để hướng dẫn họ sản xuất cùng một loại cây, cùng một loại con; giám sát họ thực hiện quy trình sản xuất hiện đại, đồng bộ.

Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang là một ngoại lệ. Họ đã ký hợp đồng liên kết với hơn 20 nghìn hộ nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long để sản xuất trên các cánh đồng lớn. Công ty hỗ trợ nông dân về giống chất lượng cao, hướng dẫn quy trình sản xuất hiện đại và tiêu thụ hết lúa cho nông dân.

Để làm được điều này, công ty phải phát triển một đội ngũ hướng dẫn viên đồng ruộng (trên 1.500 người) và các cán bộ trung cấp, cao đẳng nông nghiệp. Bình quân một hướng dẫn viên đồng ruộng hướng dẫn 20 - 25 hộ nông dân. Song đến bây giờ, Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang không thể mở rộng hơn nữa và đã đề xuất cần thành lập các hợp tác xã kiểu mới để nông dân tự quản, công ty vẫn hỗ trợ nông dân và tiêu thụ sản phẩm cho hợp tác xã. Đối tác của công ty không phải hàng vạn nông dân mà chỉ là các hợp tác xã.

Sản phẩm của nông dân muốn tiêu thụ quy mô lớn và xuất khẩu phải có chứng nhận chất lượng sản phẩm và xuất xứ hàng hóa. Đây là đòi hỏi hợp lý, song không một tổ chức kiểm tra và chứng nhận sản phẩm nào có thể kiểm tra cấp chứng nhận và tái kiểm tra cho gần 10 nghìn hộ nông dân, với quy mô canh tác không quá 1ha, chỉ có 2 lao động.

Chỉ có hợp tác xã với quan hệ chặt chẽ với xã viên, hướng dẫn và giám sát lẫn nhau, với quy hoạch sản xuất có tính ổn định, với lực lượng chuyên trách về khoa học công nghệ, có tư cách pháp nhân mới là đối tác của các tổ chức kiểm tra và chứng nhận chất lượng sản phẩm, chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Như vậy, chừng nào nền sản xuất nông nghiệp còn chủ yếu là các hộ riêng lẻ, không liên kết, thì 10 triệu hộ nông dân vẫn mãi là 10 triệu hộ yếu thế và các đòi hỏi rất hợp lý về sản xuất nông nghiệp và các chính sách tín dụng, đào tạo nông dân, liên kết các nhà khoa học sẽ rất khó thực thi.

Thực tế thành lập và vận hành các hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012 ở nhiều địa phương đã chứng minh các hợp tác xã này tuy chỉ có vài chục xã viên, song đã thực sự giúp các hộ xã viên sản xuất, kinh doanh hiệu quả hơn hẳn, đặc biệt, tổ chức sản xuất theo yêu cầu của thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp, hướng đến sản xuất quy mô lớn các sản phẩm chủ lực, sử dụng giống chất lượng cao, quy trình canh tác hiện đại, gắn với chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm, thì chủ thể quan trong nhất phải là các hợp tác xã.

Chuyển từ sản xuất hộ cá thể, đơn lẻ là chủ yếu sang sản xuất qua hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp qua hợp tác xã. Với các chính sách của Nhà nước về quản lý đất, vốn, hỗ trợ kỹ thuật, liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và nhà khoa học phải là hợp tác xã. Để có thể trở thành đối tác của doanh nghiệp, có thể phát triển sản xuất quy mô lớn, phải là hợp tác xã và doanh nghiệp, chứ không thể là các hộ nông dân có 2 lao động và 1ha canh tác.

Với Luật Hợp tác xã năm 2012 và kết quả của các tấm gương hợp tác xã kiểu mới ở các địa phương, nếu đẩy mạnh triển khai và hình thành hợp tác xã kiểu mới, thì đây là nền tảng quan trọng nhất, khâu đột phá để tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam và nâng cao thu nhập bền vững cho nông dân Việt Nam.