Khó khăn trong sản xuất nông nghiệp sạch và liên kết chuỗi

Theo An Như/kinhtenongthon.com.vn

Chính sách phát triển nông nghiệp sạch còn nhiều bất cập, khó mở rộng quy mô liên kết chuỗi, là những vấn đề cấp bách đang được đặt lên bàn cân, đòi hỏi các hợp tác xã (HTX) phải năng nổ hơn nữa trên thị trường.

Theo đánh giá của các chuyên gia nông nghiệp, mới có khoảng 30% sản phẩm sản xuất theo chuỗi được tiêu thụ theo hợp đồng. Nguồn: internet
Theo đánh giá của các chuyên gia nông nghiệp, mới có khoảng 30% sản phẩm sản xuất theo chuỗi được tiêu thụ theo hợp đồng. Nguồn: internet

Hà Nội: Nhiều bất cập về chính sách phát triển nông nghiệp sạch

Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về sản xuất, kinh doanh, chế biến sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn. Tuy nhiên, các quy định khi đi vào thực tế còn bất cập, chưa thống nhất. ...

Nhờ chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, Hà Nội đã hình thành 157 cánh đồng mẫu lớn, 14 vùng sản xuất lúa chất lượng cao. Diện tích rau được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm đạt 5.000ha. Có 76 xã chăn nuôi trọng điểm và 3.232 trại quy mô lớn ngoài khu dân cư, 25 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung...

Tuy vậy, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội, ông Tạ Văn Tường, cho biết: hiện, một số văn bản về chính sách phát triển nông nghiệp sạch, an toàn, còn bất cập, không thống nhất. Chẳng hạn, chưa có quy định mẫu về “giấy chứng nhận” , hoặc “giấy xác nhận” nguồn gốc thủy sản và sản phẩm thủy sản. Vì vậy, gây khó khăn cho các ngành chức năng trong quá trình kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm tươi sống.

Ngoài ra, chưa có quy định về việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm rau, củ, quả tươi trong quá trình lưu thông, nên không xử lý được vi phạm. Chưa kể Luật Thú y có hiệu lực, bãi bỏ kiểm dịch nội tỉnh, cũng gây khó khăn trong công tác truy xuất nguồn gốc sản phẩm động vật.

Về vấn đề này, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Hà Nội, ông Tạ Văn Sơn, cũng cho biết: toàn thành phố có trên 20.000 cơ sở sản xuất, chế biến kinh doanh nông, lâm, thủy sản nhỏ lẻ. Thực hiện Thông tư số 51/2014/TT-BNNPTNT, năm 2014, quy định điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm và phương thức quản lý đối với các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, Thành phố đã phân cấp cho các xã, thị trấn quản lý, tổ chức ký cam kết. Trong đó, yêu cầu không sử dụng chất thải từ động vật và con người để nuôi trồng thủy sản.

Song, thực tế các vùng trũng nuôi trồng thủy sản kết hợp với lúa, vẫn xả thải không theo quy định. Trách nhiệm giao cho cấp xã quản lý, nhưng hầu như địa phương vẫn chưa có hình thức kiểm tra và xử lý.

Mặt khác, cũng theo ông Tường thì, các sở, ngành cần tham mưu cho thành phố cơ chế hỗ trợ cơ sở, doanh nghiệp xây dựng chợ đầu mối nông sản an toàn, để quản lý tốt nguồn thực phẩm vào thành phố. Đây cũng là nơi  giới thiệu, quảng bá đặc sản vùng miền, nông sản an toàn của cả nước.

Ngoài ra, Hà Nội cần thực hiện quy hoạch chăn nuôi, giết mổ tập trung. Từng bước đình chỉ hoạt động các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ, không bảo đảm yêu cầu vệ sinh. Đồng thời, cho các cơ sở giết mổ đủ điều kiện an toàn thực phẩm hoạt động, Trong khi chờ rà soát, sửa đổi quy hoạch, phân cấp thẩm định,  nên cho cấp huyện cấp phép dự án giết mổ quy mô vừa và nhỏ, để đẩy nhanh dự án giết mổ tại địa phương.

Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Văn Đức (Gia Lâm) Nguyễn Văn Minh, đề xuất: Nên bãi bỏ hoặc sửa đổi thủ tục hành chính chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm; thủ tục đánh giá xếp loại cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Để cơ sở tự công bố chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, và chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu xảy ra vi phạm.

Chính phủ nên ban hành Nghị định quy định về kiểm soát nguồn gốc xuất xứ rau lưu thông, thương mại, trên thị trường. Tất cả các sản phẩm rau tại các vùng sản xuất đều được kiểm soát ở chợ đầu mối... nhằm tạo sự minh bạch trong khâu tiêu thụ.

Tuyên Quang: Khó mở rộng quy mô sản xuất chuỗi thực phẩm an toàn

Sau nhiều nỗ lực của ngành Nông nghiệp và Dự án Hỗ trợ nông nghiệp nông dân, nông thôn (TNSP), Tuyên Quang đã hình thành một số chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp an toàn. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô và phát triển bền vững các chuỗi giá trị đang gặp nhiều khó khăn.

Huyện Sơn Dương có lợi thế về nguồn thức ăn sẵn có, thị trường tiêu thụ rộng. Năm 2013, được sự hỗ trợ của ngành Nông nghiệp, Dự án TNSP, chuỗi giá trị  thịt lợn an toàn đã được triển khai. Bà Nguyễn Thị Thắm, xã Hợp Hòa cho biết, nhờ Dự án TNSP hỗ trợ lợn nái siêu nạc, bà đã phát triển được 10 con, ngoài ra còn mở rộng chăn nuôi lợn thịt.

Tuy nhiên, việc áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn, sản phẩm chất lượng hơn, giá bán cao hơn, nhưng chi phí đầu tư lớn, từ con giống, thức ăn, thuốc thú y… nên lợi nhuận thấp.  

Mô hình chè sạch ông Bàng Minh Hạnh, xã Kim Quan (Yên Sơn), cũng được người tiêu dùng đánh giá cao, thị trường ổn định. Song, ông không có ý định mở rộng sản xuất, bởi lo ngại lúc có nhiều sản phẩm lại khó bán, giá thấp. 

Hiện, Tuyên Quang có 8 chuỗi sản xuất nông sản theo hướng an toàn: Chuỗi lợn, chuỗi trâu, chuỗi dong riềng, chuỗi keo, chuỗi cá, chuỗi cam, chuỗi lạc, chuỗi chè. Thông qua chuỗi, bước đầu đã hình thành điểm bán nông sản an toàn, kiểm soát được chất lượng, truy xuất nguồn gốc xuất xứ.

Tuy nhiên, các chuỗi mới chỉ ở quy mô hộ, nhóm hộ, tổ hợp tác, và việc sản xuất theo chuỗi nông sản an toàn, mới chỉ dừng lại ở từng công đoạn đơn lẻ, chưa có sự gắn kết sản xuất - tiêu thụ, dẫn tới đầu ra bấp bênh.

Theo đánh giá của các chuyên gia nông nghiệp, mới có khoảng 30% sản phẩm sản xuất theo chuỗi được tiêu thụ theo hợp đồng. Một lượng lớn còn lại phải tiêu thụ qua chợ đầu mối, các kênh bán lẻ; giá cả phải cạnh tranh với sản phẩm thông thường; khiến người dân nản lòng không mở rộng sản xuất.

Bên cạnh việc chưa có sự liên kết giữa sản xuất, tiêu thụ; thị trường bấp bênh, thì vấn đề vốn cũng là trở ngại để mở rộng quy mô sản xuất chuỗi theo hướng an toàn. Bởi thực tế, sản xuất theo chuỗi chi phí đầu vào lớn, trong khi lợi nhuận thấp, nên chưa khuyến khích được người dân, HTX tham gia. 

Để mở rộng quy mô sản xuất chuỗi sản phẩm an toàn, Sở Nông nghiệp đã đẩy mạnh chương trình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ cao vào sản xuất. Xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản chất lượng cao, bảo đảm ATTP.

Hiện, Tuyên Quang  đã và đang có một số chuỗi gắn sản xuất, chế biến như chuỗi cá, chuỗi cam. Tỉnh cũng đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng chuỗi, chính sách hỗ trợ vùng sản xuất.     

Hậu Giang: Vai trò HTX trong liên kết chuỗi

Hình thức tổ chức sản xuất là một trong những tiêu chí quan trọng trong Xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, các HTX và Liên hiệp HTX ở Hậu Giang đã làm tốt vai trò liên kết chuỗi sản xuất, góp phần tăng trưởng mạnh mẽ cho khu vực nông thôn.

Cuối năm 2013, xã Đại Thành, thị xã Ngã Bảy về đích nông thôn mới, trong đó có phần tích cực của HTX Thủy sản Đại Thắng. Ông Nguyễn Tấn Phong, Giám đốc HTX Thủy sản Đại Thắng, cho biết: “Từ khi thành lập HTX nuôi cá tới giờ, các thành viên của HTX không còn ai nghèo. Ngoài ra, hàng năm cổ tức của HTX còn trích ra một phần để hỗ trợ, đóng góp các hoạt động xã hội, từ thiện như làm lộ nông thôn, phát quà cho hộ nghèo…”.

Mô hình HTX đang trở thành đầu tàu kinh tế trong xây dựng nông thôn mới, đồng thời cũng khuyến khích sản xuất nhỏ lẻ trong gia đình, để những lao động nông nhàn, kém sức tham gia trồng trọt, chăn nuôi, phục vụ đời sống và đóng góp tích cực cho xã hội.

Đó cũng là công việc mà HTX Thanh Tú, xã Vị Thắng (Vị Thủy) thành công mấy năm qua, nhờ triển khai mô hình đan lục bình, khiến thu nhập của người dân đạt 2-3triệu đồng/người/tháng. Chị Mai Thị Kim Loan, cho biết: “Nghề đan lục bình dễ kiếm, dễ làm. Tôi tận dụng thời gian rỗi để đan nhưng mỗi tháng có thu nhập  2,5-3 triệu đồng, không cần vốn liếng gì”.

HTX vững mạnh là nòng cốt trong các Liên hiệp HTX, để liên kết với doanh nghiệp, nhà khoa học, tạo mối liên kết khăng khít “4 nhà”. Hình thành chuỗi giá trị nông sản hàng hóa bền vững từ đầu vào tới đầu ra.

Hiện, Hậu Giang đã thành lập được Liên hiệp HTX Nông nghiệp Châu Thành (Liên hiệp). Qua 5 năm hoạt động, Liên hiệp đã thể hiện tốt vai trò liên kết, tạo mối quan hệ gắn bó, lớn mạnh cho hoạt động nông nghiệp ở địa phương.

Được biết, Liên hiệp đã liên kết được 6 HTX mạnh tại Châu Thành là: HTX Nông nghiệp Thạnh Phước, HTX Khánh Hội, HTX Đông Thành, HTX Phú Thành, HTX Thành Lợi và HTX Phước Long. Các HTX đã vận dụng sức mạnh nội lực để hỗ trợ nhau phát triển, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá sản phẩm.

Nhờ mối liên kết trên, nông sản Hậu Giang được bạn bè trong, ngoài tỉnh và cả nước ngoài biết đến. Ngoài ra, các HTX còn kết nối được với doanh nghiệp cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân sản xuất với giá thành rẻ.

Mỗi năm, hàng trăm thành viên và nông dân trong và ngoài HTX được sử dụng hơn 200 tấn phân bón chất lượng cao. Liên hiệp còn tổ chức thu mua hàng nông sản cho bà con, tạo đầu ra và thu nhập ổn định.

Ông Võ Trường Hận, Chủ tịch HĐQT Liên hiệp HTX Nông nghiệp Châu Thành, cho hay: “Liên Hiệp có nhiều HTX sản xuất cây giống, đã liên kết cung cấp sản lượng lớn cho tỉnh và các địa phương khác, tạo thu nhập ổn định cho thành viên. Ngoài ra, Liên hiệp còn liên kết tổng hợp các loại hàng hóa, do thành viên làm ra để đi tiêu thụ, trung bình 30 tấn/ngày cho các đối tác. Trong sản xuất, chúng tôi luôn quan tâm đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản. Từ đó, tiến tới xây dựng nhãn hiệu hàng hóa với chất lượngVietGAP,GlobalGAP để đạt chuẩn ATTP. Trong kế hoạch cho nhiệm kỳ này, Liên hiệp đề ra mục tiêu: xã viên sản xuất kinh doanh nhỏ có thêm vốn để mở rộng quy mô”.

Có thể nói, HTX, liên hiệp HTX phát triển đúng hướng sẽ là yếu tố và động lực quan trọng góp phần ổn định và làm giàu cho địa phương. Thực tế cho thấy: HTX, Liên hiệp HTX đã có nhiều cố gắng trong việc điều hành sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho thành viên, nông dân rất tốt và ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường.

Điều này được thể hiện qua việc đạt chứng nhận xuất khẩu GlobalGAP như: HTX Nông nghiệp Phước Trung; HTX Nông nghiệp Thạnh Phước (huyện Châu Thành); HTX Dưa hấu VietGAP (huyện Vị Thủy)… Sản phẩm của HTX ngày càng khẳng định vị thế của mình, không chỉ thị trường trong nước, mà cả ngoài nước. Do ứng dụng quy trình sản xuất tiên tiến, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tạo ra sản phẩm thân thiện môi trường.

Các HTX, liên hiệp HTX hoạt động tốt, không những đem lại hiệu quả kinh tế, mà còn hiệu quả về mặt xã hội. Bởi, khi HTX làm ăn tốt, người dân tăng thu nhập sẽ đóng góp vào ngân sách địa phương.