Lấy canh nông làm gốc

Theo thoibaonganhang.vn

(Tài chính) Các chương trình tín dụng cho nông nghiệp – nông thôn của Ngân hàng Nhà nước luôn được các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm. Bởi, đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo chuỗi liên kết để hình thành quy mô lớn là mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và hướng tới phát triển bền vững.

Lấy canh nông làm gốc - Ảnh 1
Ông Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam
Phóng viên: Trong mấy năm kinh tế phát triển chậm vừa qua, nông nghiệp nổi lên là bệ đỡ cho tăng trưởng và an sinh xã hội. Ông bình luận gì về vấn đề này?

Ông Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam: Trong công cuộc xây dựng nước nhà. Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.

Nông thôn là thị trường rộng lớn với dân số chiếm 67,64% tổng dân số cả nước năm 2013, làm ra sản phẩm đạt yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, giá cả nên đã góp phần quan trọng làm tăng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong nước, góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm tăng trưởng kinh tế.

Ngành nông nghiệp đã góp phần quan trọng thực hiện xóa đói giảm nghèo, đưa nước ta từ chỗ thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới với 7 mặt hàng chủ lực như: xuất khẩu tiêu đứng thứ nhất thế giới; cà phê và hạt điều đứng thứ hai; gạo, cao su và thủy sản đứng thứ ba và chè đứng thứ năm.

Xuất khẩu nông sản tăng trưởng bình quân 13,3%/năm trong giai đoạn 2008 đến nay. Trong 22 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên ngành nông nghiệp đã đóng góp 7 mặt hàng là thuỷ sản, rau quả, gạo, hạt điều, cà phê, cao su, sắn và các sản phẩm từ sắn.

Nền nông nghiệp nước ta còn tự hào có 12 loại cây trồng, vật nuôi có năng suất thuộc vào loại nước có năng suất sinh học cao nhất thế giới là hạt điều, tiêu, cà phê, nho, dừa, cao su, gạo, chè, đay, thuốc lá, cá tra và bò sữa. Nông nghiệp cũng đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá, kiềm chế lạm phát, nhất là trong những năm 2011 đến 2013 do giá lương thực và thực phẩm cơ bản ổn định.

Lương thực, thực phẩm là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng chi tiêu của người có thu nhập thấp, nên giá lương thực, thực phẩm ổn định là niềm vui của người tiêu dùng, đặc biệt là người nông dân có thu nhập thấp.

Nhưng có nghịch lý là khi năng suất càng cao thì thu nhập của nông dân càng giảm, thưa ông?

Nền nông nghiệp của chúng ta cần phải đi tìm lời giải cho 3 vấn đề cấp bách, đó là nước ta có nhiều cây trồng, vật nuôi có năng suất thuộc loại cao nhất thế giới, nhiều nông sản dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nhưng thu nhập của người nông dân vẫn còn thấp và không ổn định. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp có xu hướng giảm dần: tăng trưởng bình quân 1996-2000 là 4,01%/năm, 2001-2005 là 3,83%/năm, 2006-2010 là 3,03%/năm và trong giai đoạn 2011-2013 chỉ tăng 2,7%/năm. Đáng lưu ý là trong 2 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp giảm và chỉ bằng khoảng 2,6%/năm.

Đồng thời, với phương thức sản xuất chủ yếu là hộ gia đình và nông trại, với sự hỗ trợ của hệ thống khuyến nông và thành tựu to lớn về năng suất cây, con, sản lượng và xuất khẩu nông sản trong hơn 20 năm qua, người nông dân Việt Nam cần cù, sáng tạo đã gần như làm hết khả năng của mình.

Vì vậy, muốn thúc đẩy ngành nông nghiệp tăng trưởng cao hơn, để nông dân có thu nhập cao hơn và bền vững hơn thì ngoài việc người nông dân phải tiếp tục lao động cần cù và sáng tạo, cần phải “mổ xẻ”, phân tích khâu trước nuôi trồng và sau là tiêu thụ sản phẩm trong chuỗi sản xuất nông nghiệp. Câu chuyện tái cơ cấu ngành nông nghiệp là tất yếu.

Theo ông, những việc gì cần giải quyết ngay trong giai đoạn hiện nay để nâng cao đời sống người nông dân và phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam bền vững?

Các khâu tiêu thụ sản phẩm nông sản là hết sức quan trọng vì quá trình thu hoạch, lưu trữ, chế biến, tiêu thụ là các khâu trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng và mang lại cơ hội cải thiện thu nhập cho người nông dân, nhưng lâu nay chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng thương lái thu lợi rất lớn trong khi người nông dân thường xuyên lâm vào cảnh "được mùa rớt giá". Vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các giải pháp  chủ yếu sau.

Thứ nhất phát triển các hình thức bao tiêu sản phẩm qua DN như trường hợp điển hình của CTCP Bảo vệ thực vật An Giang hợp đồng với nông dân hàng nghìn hécta trồng một loại giống, gieo cùng một ngày, chăm sóc cùng một công nghệ và thu hoạch cùng một thời gian và bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Hoặc mô hình thứ hai là chính người nông dân góp vốn để hình thành các hợp tác xã, tự lo "đầu ra" cho mình.

Thứ hai, để tránh rủi ro rớt giá mà người nông dân nước ta năm nào cũng phải đối mặt, cần tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện các mô hình thí điểm mua bán tập trung như Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX), Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC), Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE)... để có giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức các sàn giao dịch nông sản hàng hóa theo hướng áp dụng các phương thức giao dịch có tác dụng bảo hiểm giá cho người nông dân, như các hợp đồng tương lai, quyền chọn...

Thứ ba, trên cơ sở tổng kết tình hình 3 năm thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp theo Quyết định 315/QĐ-TTg ngày 1/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ, khẩn trương khắc phục các hạn chế, khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện như phạm vi, đối tượng, địa bàn bảo hiểm rộng, tính chất sản xuất nhỏ, manh mún, thường xuyên chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh, giám định, xác định thiệt hại, phòng chống trục lợi bảo hiểm…

Thứ tư, để không bị Chính phủ nước ngoài đánh thuế bán phá giá, chúng ta phải công khai cho quốc tế hiểu Việt Nam không có chủ trương và thực tế không bán phá giá. Hiện nay, chi phí lao động bình quân của Việt Nam khoảng 1USD/giờ, trong khi đó chi phí lao động của Mỹ là 35USD/giờ, Singapore là 24USD và Trung Quốc là 2,5USD. Nói một cách khác, chi phí lao động nước ta chưa bằng một nửa của Trung Quốc, bằng 1/30 của Mỹ và Đức.

Do đó, phải làm rõ để các nước hiểu rằng không thể căn cứ vào chi phí thấp để đánh thuế bán phá giá đối với nông sản của Việt Nam. Vì vậy, những ngành nghề nào có nguy cơ bị kiện hoặc bị đánh thuế bán phá giá thì cần chủ động mời những nước quan tâm cử đại diện vào Việt Nam để họ đi khảo sát thực tế, họ thấy Nhà nước ta không bù lỗ, không trợ giá cho nông nghiệp.

Thứ năm, cần triển khai quyết liệt hơn nữa các chính sách hỗ trợ người nông dân xây dựng thương hiệu sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, quảng bá tiếp thị, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa.

Cuối cùng là, trong các chuỗi giá trị nông sản, việc đầu tư vào khâu chế biến và bảo quản vẫn còn hạn chế nên giá trị gia tăng của các sản phẩm nông nghiệp chưa cao. Do đó, cần phát triển hệ thống kho bãi lưu trữ, vận chuyển, chính sách và cơ chế thu mua tạm trữ, phát triển công nghiệp chế biến nông sản.

Xin cảm ơn ông!