Nhận diện các vấn đề mới của hội nhập, giải pháp để tham gia TPP và FTA hiệu quả

GS., TS. ĐỖ ĐỨC BÌNH - Đại học Kinh tế quốc dân

(Tài chính) Hội nhập quốc tế không chỉ bó hẹp trong các liên kết thương mại mà còn liên quan tới các vấn đề khác như chuyển giao công nghệ, đấu thầu, lao động… Điều đó đòi hỏi các quốc gia tham gia phải có cơ chế, chính sách mới, mang tính đột phá. Chỉ như vậy, quốc gia đó mới có thể tham gia đúng cam kết, tận dụng tốt cơ hội và không mất uy tín trong cuộc chơi chung và Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Hội nhập quốc tế không chỉ bó hẹp trong các liên kết thương mại mà còn liên quan tới các vấn đề khác. Nguồn: internet
Hội nhập quốc tế không chỉ bó hẹp trong các liên kết thương mại mà còn liên quan tới các vấn đề khác. Nguồn: internet

Những vấn đề mới của hội nhập

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vừa kết thúc vòng đàm phán thứ 21 vào tháng 2/2015, dự kiến cuối năm nay sẽ hoàn tất đàm phán để ký kết và thực thi. Bên cạnh TPP, từ tháng 11/2010 đến nay, nỗ lực tham gia các vòng đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều dấu mốc đáng nhớ như:

- Ngày 13/10/2014, nhân chuyến thăm chính thức châu Âu và đi dự hội nghị ASEM 10 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam – EU đã ra tuyên bố chung về định hướng kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) làm cơ sở quan trọng cho việc kết thúc đàm phán Hiệp định vào đầu năm 2015.

- Ngày 10/12/2014, một thoả thuận kết thúc đàm phán FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc cũng đã được ký tại Busan, Hàn Quốc.

- Ngày 15/12/2014, chuỗi đàm phán của Việt Nam với các đối tác lớn trong Liên minh hải quan Nga- Belarus-Kazakhstan (VCUFTA) đã kết thúc.

- Ngày 23/1/2015, vòng đàm phán cuối cùng của FTA Việt Nam - EU đã diễn ra tại Bỉ với nhiều thoả thuận quan trọng.

Hiệp định TPP và các hiệp định FTA vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp (DN) trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh; vừa là sức ép buộc DN phải nâng cao cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong điều kiện mới. Bối cảnh đó đòi hỏi Việt Nam phải sớm nhận diện được những vấn đề mới của hội nhập để có thể tận dụng tốt các cơ hội, giảm thiểu thách thức, tạo động lực cho phát triển. Có thể điểm qua một số vấn đề mới trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là:

Thứ nhất, cuối năm 2015, Việt Nam sẽ chính thức tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Đồng thời, bắt đầu từ 1/1/2015, Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết WTO.

Thứ hai, với quyết tâm của 12 nước thành viên, trong đó có Việt Nam đang xúc tiến đàm phán để sớm ký Hiệp định TPP, một loạt hiệp định về xuất xứ hàng hoá, mua sắm Chính phủ, lao động và công đoàn… sẽ tác động đến kinh tế - xã hội Việt Nam. Điều này, buộc Việt Nam phải có tư duy mới về lãnh đạo, điều hành nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội khác.

Thứa ba, năm 2018, Việt Nam sẽ phải thực hiện nền kinh tế thị trường đầy đủ (không phải là phi thị trường như hiện nay). Theo đó, Việt Nam sẽ phải cải cách mạnh mẽ theo hướng đồng tiền nội địa tiến tới tự do chuyển đổi; Tiền lương, tiền công do chủ, thợ thoả thuận quyết định; Giá cả hàng hoá, dịch vụ do thị trường điều tiết; Quyền kinh doanh của doanh nghiệp (DN) trong và ngoài nước tiến tới như nhau; Nguồn lực do thị trường phân bổ; Thương mại và đầu tư tiến tới tự do hoá hoàn toàn - Đây là những vấn đề không dễ đáp ứng và thực hiện đối với Việt Nam.

Năm 2018, Việt Nam sẽ phải thực hiện nền kinh tế thị trường đầy đủ. Theo đó, Việt Nam sẽ phải cải cách mạnh mẽ theo hướng đồng tiền nội địa tiến tới tự do chuyển đổi; Tiền lương, tiền công do chủ, thợ thoả thuận quyết định; Giá cả hàng hoá, dịch vụ do thị trường điều tiết; Quyền kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài nước tiến tới như nhau.
Song song với việc thực hiện các vấn đề này, Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiều Hiệp định song phương và đa phương khác đã ký kết. Tất cả các định hướng hoạt động này đã và đang tiếp tục tác động rất lớn đến nền kinh tế của Việt Nam. Nếu Việt Nam không sớm thay đổi tư duy, không tích cực cải cách mạnh mẽ, hiệu quả hơn thì khả năng bị thua thiệt trong các cuộc chơi khu vực và toàn cầu là rất lớn.

Nhận diện thách thức

Thực tế cho thấy, hành trình hội nhập của Việt Nam hiện vẫn còn nhiều thách thức. Cụ thể:

Thứ nhất, hội nhập với bên ngoài tuy đã được đẩy mạnh, tích cực trong đàm phán ký kết các hiệp định FTA nhưng hội nhập bên trong diễn ra chậm, thậm chí là rất yếu. Cho đến nay, Việt Nam đã hội nhập khá sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, trực tiếp ký và tham gia cùng ASEAN ký và thực thi 8 hiệp định FTA. Theo đó, nền kinh tế đã thực hiện mở cửa thị trường mạnh mẽ, xây dựng được nhiều bộ luật, luật, nghị định, thông tư… cho thích ứng với cam kết quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, so với cam kết và chuẩn mực quốc tế thì thể chế, luật pháp của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ, Nhà nước vẫn can thiệp sâu vào nền kinh tế thị trường; vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế, cải cách DNNN diễn ra chậm… Những vấn đề trên đã gây ra sự méo mó trong nền kinh tế thị trường, khiến các nhà đầu tư khó dự đoán được các biến động, thay đổi. Chính vì những tồn tại này mà cho đến nay nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ, EU chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ;

Thứ hai, mặc dù hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam đã được rà soát, xây dựng mới và từng bước được hoàn thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ, nhất quán và ổn định... Đây chính là một trong những nguyên nhân gây bất lợi cho Việt Nam khi va chạm và giải quyết các vụ tranh chấp và kiện quốc tế;

Thứ ba, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, về sự tham gia các tổ chức kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu, các FTA… chưa thật đầy đủ và vẫn còn có sự gò bó về “tư duy, quan điểm”. Đổi mới tư duy vẫn chưa thực sự mang tính hệ thống, còn mang tính chắp vá. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, DN và người dân thờ ơ, thiếu sẵn sàng chủ động trong đổi mới và hội nhập. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có tới 76% DN Việt Nam không hiểu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), 94% DN không nắm được các nội dung đàm phán trong AEC, gần 63% DN không nắm được cơ hội, thách thức của AEC. Nguyên nhân có nhiều nhưng tựu chung do công tác tuyên truyền, phổ biến chưa mạnh mẽ; DN không được tham gia tham vấn vào các nội dung đàm phán và không tích cực, chủ động tìm kiếm thông tin…

Thứ tư, hạn chế, bất cập trong tư duy, nhận thức về nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, DN và hàng hoá của Việt Nam. Mặc dù gần đây, năng lực cạnh tranh đã được cải thiện nhưng vẫn ở trình độ thấp so với nhiều nước trong ASEAN nói riêng. Điều quan trọng là năng lực thể chế và năng lực công nghệ chậm được cải thiện, chưa tạo ra môi trường thuận lợi cho các ý tưởng sáng tạo công nghệ phát triển và chưa hấp dẫn trong thu hút công nghệ hiện đại…

Thứ năm, chưa xây dựng được ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghiệp phụ trợ để tận dụng các cơ hội của hội nhập, trong đó có các FTA, TPP đã, đang và sẽ thực thi.

Giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả TPP và các hiệp định FTA

Thực tiễn quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế trên thế giới cho thấy, chưa có quốc gia nào hội nhập là chết, chưa có hiệp định FTA nào chỉ đem lại lợi cho một bên và thiệt hại cho bên kia. Trái lại, lợi ích luôn nhiều hơn thiệt hại, mất mát. Điều này, hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực, nội lực của từng quốc gia, DN. Trên thực tế, cơ hội và thách thức là hai mặt đối lập nhưng luôn chuyển hoá cho nhau. Vì vậy, nếu quốc gia, DN nào tích cực cải cách, đổi mới thì ắt sẽ tận dụng tốt cơ hội vượt qua các thử thách, thậm chí biến thách thức thành cơ hội và thành công trong cuộc chơi và phát triển bền vững.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có tới 76% doanh nghiệp Việt Nam không hiểu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), 94% DN không nắm được các nội dung đàm phán của Hiệp định, gần 63% DN không nắm được cơ hội, thách thức của AEC.

Do vậy, để có thể tham gia hiệu quả Hiệp định TPP và các Hiệp định FTA, thời gian tới Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, đổi mới mạnh mẽ hơn trong hợp tác và phát triển.

Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, không có cái gì là cố định, đứng yên mà luôn luôn vận động, trong đó có hợp tác quốc tế. Vì vậy, Việt Nam cần tính toán, cân nhắc và vận dụng tốt quy luật này. Trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua quá phụ thuộc vào một số ít, thậm chí một thị trường nên rủi ro không nhỏ và khó lường.

Do đó, khi tham gia TPP và các FTA, Việt Nam cần phải thực hiện các biện pháp mạnh mẽ hơn trong hợp tác với các đối tác chiến lược, cũng như với các đối tác thành viên trong TPP và FTA.

Hai là, phải thực sự coi trọng và làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức; nâng cao kỹ năng trong hội nhập kinh tế quốc tế gắn với yêu cầu phát triển bền vững, phát triển xanh.

Hội nhập, trong đó có tham gia TPP và FTA là sự nghiệp của toàn dân, của toàn dân tộc. Vì vậy, việc phổ biến, cập nhật các kiến thức phải được tiến hành đối với cả cấp lãnh đạo, quản lý và những người tham gia trực tiếp vào quá trình này như: Các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý DN, người lao động và người dân. Phải làm sao cho mọi người hiểu rõ hội nhập có nhiều cơ hội. Tuy nhiên, không được quá lạc quan với cơ hội, mà phải đổi mới để tận dụng tốt cơ hội, tìm cách tạo ra cơ hội để phát triển và cũng không quá “sợ” thách thức mà chần chừ, do dự trong các hoạt động đổi mới, cải cách. Chỉ như vậy, mới có những chính sách, biện pháp thích hợp để tận dụng nhằm tạo đà và động lực mới cho phát triển.

Ba là, tạo cơ chế, chính sách mới phát huy tối ưu các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của quốc gia, DN trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.

Muốn vậy, cần tận dụng tốt các cơ hội do hợp tác với các đối tác trong TPP và các FTA để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế sang chú trọng theo chiều sâu (hiệu quả, chất lượng tăng trưởng); Chú trọng tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, chế biến và thu hút đầu tư nước ngoài có lựa chọn, có điều kiện, đồng thời cũng phải chú trọng mô hình tiêu dùng hiệu quả; Thực hiện có hiệu quả và kịp thời trong việc tháo gỡ ba nút thắt cho DN, đó là thủ tục thuế, hải quan… sự điều hành của các cơ quan công quyền và cạnh tranh bình đẳng.

Bốn là, tiếp tục đổi mới chính sách thu hút FDI theo hướng không quá nhấn mạnh số lượng mà là chất lượng, thu hút có điều kiện về cả kinh tế, xã hội và môi trường.

Chú trọng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của các đối tác chiến lược trong TPP, FTA (đặc biệt là các nước phát triển thuộc EU) và cần có cơ chế, chính sách khuyến khích họ tham gia đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế tạo, chế biến nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao cho Việt nam và chuyển giao công nghệ có hiệu quả cho các DN trong nước.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Cơ chế, chính sách dù có tốt, có hay đến đâu nhưng nếu không có người đứng đầu biết lắng nghe ý kiến phản biện khoa học của các chuyên gia, DN và người dân để điều chỉnh kịp thời thì chính sách đó cũng không thể thực thi tốt và không thể đi vào cuộc sống. Vì vậy, trong bối cảnh mới, Việt Nam cần phải xây dựng cho được một Nhà nước thực sự là Nhà nước pháp quyền. Tức là Nhà nước thực hiện việc quản lý, điều hành đất nước và nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng luật pháp và các chính sách vĩ mô. Theo đó, mọi sự quản lý, kiểm tra, giám sát không gây ảnh hưởng, cản trở các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong và ngoài nước, tạo thuận lợi hoá cho DN phát triển và sáng tạo…

Ngoài các Hiệp đinh FTA đã được ký kết, từ tháng 11/2010 cho đến nay, Việt Nam nỗ lực tham gia các vòng đàm phán để gia nhập Hiệp định TPP và các FTA với nhiều dấu mốc đáng nhớ:

- Ngày 10/12/2014, một thoả thuận kết thúc đàm phán FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc cũng đã được ký tại Busan, Hàn Quốc.

- Ngày 15/12/2014, chuỗi đàm phán FTA giữa Việt Nam và Liên minh hải quan Nga- Belarus- Kazakhstan (VCUFTA) đã kết thúc tại Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang…

- Từ ngày 19 - 23/1/2015, vòng đàm phán thứ 11 và là vòng đàm phán cuối cùng của FTA Việt Nam - EU đã diễn ra tại Brussels, Bỉ.

Tài liệu tham khảo

1. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới”. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Tháng 12/2013;

2. Hoàng Văn Châu (2014). Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP và vấn đề tham gia của Việt Nam;

3. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Định hướng và giải pháp phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh mới của hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.