Những tác động của hiệp định thương mại tự do đối với kinh tế Việt Nam

TS. Nguyễn Bích Thủy - Đại học Thương mại Hà Nội

Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng đã tạo nên những gam màu tươi sáng trong bức tranh kinh tế - xã hội của đất nước. Tới nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, được xem là một trong những nước có nền kinh tế hướng xuất khẩu mạnh mẽ nhất trong khối các nước ASEAN. Trong tiến trình này có sự tác động không nhỏ của các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết.

Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nguồn: internet
Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nguồn: internet

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hưởng lợi từ sự tăng trưởng xuất khẩu đáng kể từ FDI, đóng góp quan trọng vào GDP và kim ngạch xuất khẩu (65%). Luồng kiều hối chuyển về cũng ngày càng gia tăng. Năm 2013, Việt Nam nhận được hơn 8 tỷ USD, năm 2014 là nước thứ chín trên thế giới và đứng thứ hai trong ASEAN (sau Phi-líp-pin) về nhận kiều hối với 11 tỷ USD.

Tự do hóa và hội nhập đã tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Với kim ngạch xuất, nhập khẩu gấp hơn 1,5 lần GDP trong những năm gần đây, Việt Nam được xem là quốc gia có nền kinh tế với “độ mở ” khá cao. Bằng việc ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) vào tháng 7-2000, chúng ta đã cam kết hoạt động theo luật chơi quốc tế, bình đẳng, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa hàng hóa, đầu tư trong nước và ngoài nước, chấp nhận mở cửa cả những ngành dịch vụ như viễn thông, tài chính mà trước đó đã khoanh vùng vì “an ninh quốc gia”.

Năm 2007, với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta lại tiến thêm một bước dài trên con đường hội nhập. Kinh tế Việt Nam được ví như “một con tàu ra biển lớn”. Áp lực cải cách đã thúc đẩy thay đổi rất nhiều luật lệ về hải quan, thuế, đầu tư, doanh nghiệp (DN)... Đây là điểm sáng được các nhà đầu tư quốc tế đánh giá rất cao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn lại chặng đường đã qua, quá trình hội nhập kinh tế vẫn chưa thực sự tạo được những tác động tích cực, mang tính dài hạn. Khả năng thích ứng với kinh tế thị trường và chủ động khai thác cơ hội của chúng ta còn yếu. Tính tích cực, chủ động trong hội nhập chưa cao, quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Việt Nam mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, đặc biệt là việc tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực để chiếm lĩnh các vị trí có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa - kinh tế, địa - chính trị của đất nước...

Hiệp định thương mại tự do và những tác động tới kinh tế Việt Nam

Những mặt tích cực, thuận lợi

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy 3 thế hệ hiệp định thương mại tự do (FTA) nối tiếp nhau diễn ra trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam đã tham gia 8 FTA, trong đó có 6 FTA khu vực (ASEAN, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Ô-trây-li-a - Niu Di-lân, ASEAN - Ấn Độ) và 2 FTA song phương (Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) và FTA Việt Nam - Chi-lê) với phạm vi và mức độ tự do hóa khác nhau.Mức độ cam kết hội nhập kinh tế quốc tếđã chuyển dần từ thấp lên cao, từ hẹp sang rộng, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế khu vực và thế giới.

Cùng với 8 FTA truyền thống, ngoài FTA giữa Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), giữa Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EEU) mới được ký kết và việc tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào tháng 12-2015, có thể kể đến sự kiện đặc biệt là Việt Nam kết thúc đàm phán FTA thế hệ mới với Liên minh châu Âu (EVFTA) và đầy triển vọng là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng hơn, nội dung đều vượt ra ngoài cam kết về thương mại, dịch vụ và một phần đầu tư, đề cập nhiều đến thể chế, pháp lý trong các lĩnh vực môi trường, lao động, DN nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ... và cả những quy định “ngoài kinh tế” hay “kinh tế chính trị”. Các FTA này khi có hiệu lực sẽ ảnh hưởng rất mạnh tới thể chế của các bên liên quan. Tham gia các FTA giúp chúng ta có cơ hội cơ cấu lại xuất, nhập khẩu lành mạnh hơn, tránh phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các đối tác sẽ tăng cao sau khi có FTA.

Tuy nhiên, khía cạnh này được thể hiện rõ hơn trong quan hệ FTA với những đối tác có cơ cấu xuất, nhập khẩu mang tính bổ sung, như Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Hàn Quốc. Với các đối tác còn lại (ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ) tính bổ sung thấp, nếu như không nói là cạnh tranh, đặc biệt là với Trung Quốc. Với việc có thêm nhiều FTA, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng lên nhưng DN Việt Nam cũng sẽ đối mặt bị kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Với VKFTA, quan hệ đầu tư, thương mại, du lịch giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ được cải thiện. FTA giữa Việt Nam - Hàn Quốc mở ra cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư rất lớn từ Hàn Quốc vào Việt Nam, đặc biệt là có thể kỳ vọng dòng vốn chảy vào các lĩnh vực, như công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp điện tử, nông nghiệp chế biến... Đặc biệt, Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên được Hàn Quốc mở cửa thị trường, xóa bỏ thuế quan có lộ trình đối với những sản phẩm hết sức nhạy cảm trong nước, như hoa quả tươi, chế biến (thuế suất khoảng 30% - 50%); một số rau quả nhiệt đới và nhất là những mặt hàng, như tỏi, gừng, mật ong, khoai lang, đỗ đỏ... (thuế suất những mặt hàng này rất cao, từ 241% đến 420%, do đây là hàng hóa đặc biệt nhạy cảm với Hàn Quốc).

Cùng với EEU, chúng ta nối lại quan hệ buôn bán, đầu tư đã có từ rất lâu với quy mô lớn giữa Việt Nam với các nước trong khối, đặc biệt là Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan. Quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và 3 nước này được dự kiến cao gấp 3 lần hiện nay, sẽ tăng với tốc độ 18% - 20%/năm và quy mô đến năm 2020 sẽ đạt khoảng từ 7,2 tỷ USD đến 8 tỷ USD.

Khi EVFTA được ký kết, sẽ bổ sung 7% - 8% tăng trưởng trung bình của Việt Nam, có tới 90% hàng hóa vào thị trường EU được hưởng thuế suất 0%, tạo ra lợi thế về lượng xuất khẩu và phần giá trị gia tăng thu được. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ tăng khoảng 10% đến năm 2025 .

TPP hiện được coi là “hiệp định của thế kỷ XXI”, hướng tới một sân chơi mới nhằm tạo ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế nên tiêu chuẩn và mục tiêu đặt ra rất cao. Đây cũng là một hiệp định có vị trí và tầm chiến lược quan trọng nhất đang được đàm phán tại thời điểm hiện nay trên thế giới. TPP sẽ tạo điều kiện cân bằng lại quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định. Bên cạnh đó, quan hệ thương mại tự do với các thị trường lớn sẽ tạo đột phá cho xuất khẩu của Việt Nam.

Ngoài ra, cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ca-na-đa với thuế nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt của các tập đoàn đa quốc gia. Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP đem lại.

Với các cam kết sâu và rộng hơn WTO, TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng. TPP hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, do vậy sẽ có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.

Khi tham gia TPP, tốc độ tăng trưởng về đầu tư và tiêu dùng dự kiến sẽ tăng từ 1,03% đến 2,11%. Ước tính mỗi năm, GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm về giá trị tuyệt đối từ 1,4 tỷ USD đến 2,9 tỷ USD. TPP cũng góp phần dịch chuyển lao động từ các ngành mà Việt Nam không còn lợi thế so sánh như nông nghiệp sang các ngành có lợi thế hơn, như da giày, dệt may, dịch vụ tiện ích...

Rõ ràng, với TPP chúng ta sẽ tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó - cơ sở để xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh. Cuộc đàm phán đã kết thúc, chắc chắn khung khổ pháp lý của TPP sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành các nền kinh tế trong thế kỷ XXI, với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn, Việt Nam sẽ được chơi trên một sân chơi đẳng cấp - sân chơi của các “đại gia” kinh tế, sẽ có thêm nhiều cơ hội để kết nối sâu hơn với kinh tế toàn cầu và có cơ hội phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn.

Những khó khăn và thách thức

TPP là một cơ hội thực sự vì chưa bao giờ Việt Nam có được một vị thế tốt như hiện nay. Tác động tổng thể của TPP đối với nền kinh tế Việt Nam là rất tích cực, song không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi doanh nghiệp. Bài học sau 7 năm gia nhập WTO của Việt Nam cho thấy, cơ hội có khi lại trở thành thách thức nếu thiếu chính sách vĩ mô thích hợp và thiếu những cải cách cần thiết.

TPP cũng có thể gây ra một số hệ quả về mặt xã hội. Những ngành vốn được bảo hộ nhiều và những DN kém cạnh tranh sẽ phải giảm sản xuất, thậm chí thu nhỏ hoặc phá sản. Còn đối với những ngành hàng được xem là có lợi thế khi tham gia TPP cũng có thể vấp phải không ít rào cản, đây cũng chính là thách thức lớn nhất, đặc biệt đối với ngành nông nghiệp khi mà sản xuất còn manh mún, năng suất sản xuất thấp, chất lượng chưa bảo đảm, đặc biệt là vấn đề thương hiệu ngành nông nghiệp quốc gia của Việt Nam chưa thể cạnh tranh với một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Khác với các FTA khác, trong đàm phán TPP, Hoa Kỳ đưa ra những đòi hỏi cao hơn, như tháo gỡ hết mọi rào cản thương mại, tự do hoá tối đa các hoạt động đầu tư, dịch vụ (như trong các đặc khu kinh tế), yêu cầu cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và cả những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam, như bình đẳng không phân biệt đối xử với các loại DN trong và ngoài nước, vấn đề DN nhà nước, vấn đề quyền lập hội, vấn đề mua sắm của Chính phủ. Những vấn đề đó Hoa Kỳ đã “cài đặt” xong hoặc cơ bản xong trong các hiệp định mậu dịch tự do đã ký với các nước đang đàm phán TPP, như Pê-ru, Chi-lê, Xin-ga-po, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, hoặc với Ca-na-đa và Mê-hi-cô trong Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA).

Trên thực tế, tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải cải cách khá nhiều luật lệ để đạt các tiêu chuẩn có thể chấp nhận được. TPP cũng sẽ không giúp loại bỏ các biện pháp chống bán phá giá/chống trợ cấp, các biện pháp phòng vệ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam mà Hoa Kỳ đang áp dụng. TPP đặt ra một cơ sở pháp lý rõ ràng, không chấp nhận những ưu đãi, biệt đãi, cách đối xử đặc biệt với bất kỳ DN nào. Đối với DN nhà nước, TPP yêu cầu công khai, minh bạch và đối xử bình đẳng. Nếu không có những định hướng rõ ràng, thống nhất cũng như các kế hoạch lồng ghép ngay từ bây giờ, áp lực trong thực hiện cam kết rất có thể sẽ lại là rào cản của những cơ hội mới.

Bài học từ việc gia nhập WTO hay các hiệp định thương mại khác vẫn được các chuyên gia nhắc đến như một lời cảnh báo, khi không ít ngành đã phải chịu sự tổn thương do không có sự chuẩn bị tốt khi hội nhập. Có thể hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nói chung và thủy sản nói riêng được hưởng lợi về thuế, song với những vấn đề “không thuộc về thuế”, đặc biệt là các rào cản bảo hộ mà nhiều nước đặt ra, nếu DN không đáp ứng được thì nguy cơ bị loại ra khỏi “cuộc chơi” là hoàn toàn có thể.

Thực thi các FTA, xung đột lợi ích luôn luôn xảy ra vì cơ hội của ngành này lại có thể là thách thức của ngành kia và ngược lại. Đây cũng là điều thường xuyên xảy ra trong nền kinh tế dù Việt Nam có tham gia FTA hay không. Song tổng hòa lại, lợi ích thu được từ các FTA đối với Việt Nam vẫn lớn, mặc dù cơ hội và thách thức của mỗi DN là khác nhau, phụ thuộc vào quy mô, ngành hàng, thị trường xuất khẩu và đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ ngày càng gia tăng các vụ kiện phòng vệ thương mại, chống trợ cấp, tự vệ, chống bán phá giá tại các thị trường Việt Nam sắp tham gia FTA. Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại và các yêu cầu kiểm dịch từ các thị trường này cũng sẽ tăng lên.

Với số vốn đăng ký thành lập bình quân khoảng 6 tỷ đồng/DN (chưa đến 300.000 USD/DN), tuyệt đại đa số DN Việt Nam là nhỏ và siêu nhỏ, chưa thể vươn tầm ra đến khu vực, nên từ trước đến nay, họ ít quan tâm tới hội nhập. Vài năm gần đây, mỗi năm có đến 50.000 DN - 60.000 DN ngừng hoạt động do nhiều nguyên nhân, nhưng có nguyên nhân sâu xa là một bộ phận lớn các DN không chịu nổi sức ép của hội nhập. Đây là cái giá phải trả khi chúng ta “mở cửa” thị trường. Việt Nam phải chuẩn bị sẵn sàng vì các FTA thế hệ mới sẽ có những tiêu chuẩn cao vượt quá sức chịu đựng của các nhóm dễ bị tổn thương (nông dân, DN nông nghiệp, DN vừa và nhỏ) và các đối tượng xã hội nhạy cảm (người lao động, người bệnh,...).

Giải pháp cho thời gian tới

Để thực thi các FTA, đáp ứng nhu cầu hội nhập, trong thời gian tới cần tập trung vào một số công việc cấp bách sau:

Về thể chế kinh tế

Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận “luật chơi” và “cách chơi”. Đổi mới thể chế phải là một khâu đột phá, gắn kết việc đổi mới thể chế trong nước với thể chế hội nhập một cách hài hòa, nhuần nhuyễn... Thực tế cho thấy môi trường kinh doanh vẫn chưa được cải thiện nhiều và do đó tự do hóa với bên ngoài chưa thực sự đi kèm với tự do hoá các nguồn lực bên trong. Không có hệ thống pháp luật phù hợp, không có môi trường kinh doanh thì không thể khai thác được lợi thế của các FTA. Bên cạnh đó cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế.

Cải cách thể chế môi trường kinh doanh cần có bước đi phù hợp, nhưng phải đặt trong mối quan hệ hệ thống: việc làm trước phải mở đường cho việc làm sau, không tạo ra xung đột pháp lý và mâu thuẫn chính sách. Với xuất phát điểm thấp, nguồn lực hạn chế, nền kinh tế Việt Nam “có đặc thù riêng”, làm sao để nền kinh tế này tiếp cận với các chuẩn mực, thông lệ kinh doanh tốt của thế giới mà các nước đi trước phải mất cả vài trăm năm để có.

Thể chế hành chính phải có những điều khoản đòi hỏi các cơ quan và chức vụ hành chính phải chịu trách nhiệm cuối cùng về các sai phạm hành chính trong phạm vi quyền quản lý của mình. Do đó thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Bên cạnh đó cũng rất cần một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp.

Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần được bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật Thuế xuất, nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các bộ luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán cũng như Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 đã được phê duyệt. Cùng với đó, cần tháo gỡ các vướng mắc, bất cập, chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất, đầy đủ, đồng bộ và khả thi.

Về cải cách và hỗ trợ doanh nghiệp

Trong một cuộc điều tra năm 2011 cho thấy, 95% trong tổng số 2.500 DN được khảo sát trên 10 tỉnh, thành phố là siêu nhỏ, tỷ lệ này vẫn giữ nguyên trong năm 2014, phần lớn sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới khoảng 2 - 3 thế hệ. Trong đó, 75% số máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 1960 - 1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% là đồ tân trang.

Chỉ khoảng 30% số doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) có khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng, khiến các DN thuộc khu vực này không có đủ năng lực tài chính để đầu tư cho máy móc, công nghệ. Hy vọng về đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao công nghệ, có tác động lan tỏa đã không trở thành hiện thực. Chỉ có 5% số doanh nghiệp FDI có công nghệ cao, 80% có công nghệ trung bình thấp, và số hợp đồng chuyển giao công nghệ, bí quyết rất hạn chế.

Các trung tâm, hiệp hội phải có trách nhiệm hỗ trợ DNNVV, DN mới thành lập trong việc đào tạo nhân lực, kỹ năng quản lý, quản trị, tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin về thị trường cũng như môi trường đầu tư, thủ tục hành chính. Đặc biệt, các trung tâm này phải hỗ trợ DN cả tiếp cận nguồn vốn thông qua việc phối hợp chặt chẽ với Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV ở địa phương và các quỹ tài chính khác dành cho khu vực DN này. Yêu cầu bức thiết là cần phải nhanh chóng triển khai áp dụng các hệ thống quản lý môi trường, như ISO 14.000, HACCP, thực hiện quản lý tốt (GMP), thực tiễn nuôi trồng tốt (GAP).

Cần có một luật hỗ trợ DNNVV, kết nối DNNVV với chuỗi giá trị toàn cầu. Xử lý vấn đề tỷ giá, lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN có thể tiếp cận được các nguồn vốn vay từ ngân hàng. Không chỉ có vấn đề hạ lãi suất mà quan trọng là làm sao cải tiến các thủ tục cho vay, tạo điều kiện cho DN không chỉ bằng tài sản thế chấp mà cần phải định hướng vào việc cho các DN sáng tạo, vào những dự án, lĩnh vực có tiềm năng.

Khả năng bị kiện hay trả đũa sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và minh bạch hóa sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề DN phải chuẩn bị. Cần phát huy vai trò của Việt kiều trong việc hàng Việt Nam có thể đặt chân vào từng thị trường nhỏ, lẻ.

Đổi mới công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại

Cần phải tạo những chuyển biến mạnh mẽ nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính sách, biện pháp quản lý xuất, nhập khẩu, rào cản.... Theo đó, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ DN trong việc tìm kiếm đối tác, thị trường mới, mặt hàng mới, thâm nhập các kênh phân phối, tham dự hội chợ, triển lãm... được xem là những việc cần làm ngay. Triệt để sử dụng Cổng thông tin xuất khẩu Việt Nam (www.vnex.com.vn) để quảng bá thương hiệu của DN tới đối tác nước ngoài nhanh nhất với chi phí thấp nhất.

Chuẩn bị nguồn nhân lực

Trong khối ASEAN, Việt Nam nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng đánh giá về phát triển nguồn nhân lực. Để góp phần thúc đẩy sự tham gia của các DN Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cần phải có một hệ thống giáo dục hiện đại tạo ra các nguồn nhân lực đủ kỹ năng và năng lực cần thiết để sẵn sàng làm việc.

Với triển vọng hoàn tất 14 FTA trong thời gian tới, Việt Nam sẽ có quan hệ thương mại tự do với 55 đối tác, trong đó có 15 thành viên G20. Đây là nền tảng cơ bản để Việt Nam hội nhập quốc tế ở tầm cao mới, mở ra không gian hợp tác phát triển rộng lớn trong tương lai. Sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không có những con người nắm vững và vận hành tốt các quy luật của kinh tế thị trường. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các “con rồng châu Á” mà Việt Nam cần phải học tập. Như vậy, việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho nhu cầu của cả hiện tại lẫn tương lai là rất quan trọng.