Những vấn đề đáng quan tâm về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (*)

Ông Trần Bắc Hà - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam

(Tài chính) Ngày 18/02/2014, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong giai đoạn 2014-2015. Tại hội nghị này, ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã có bài tham luận quan trọng về thực trạng tái cấu trúc DNNN trong thời gian qua và những kiến nghị nhằm góp phần đẩy nhanh và hiệu quả tiến trình này trong thời gian tới. FinancePlus.vn trân trọng giới thiệu lược trích bài tham luận này.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Kết quả tái cơ cấu tích cực từ BIDV

Thứ nhất, BIDV đã hoàn thành nhiệm vụ cơ bản nhất là cổ phần hóa (CPH) tất cả các công ty từ công ty bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng thương mại. Riêng BIDV đã thực hiện IPO từ tháng 12/2011 và ngày 24/01/2014, BIDV đã chính thức niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE, đánh dấu mốc chính thức trở thành công ty đại chúng niêm yết. Sự kiện BIDV niêm yết trên sàn HOSE có thể nói là 1 sự thành công tại thời điểm đó, cụ thể: (i) Nếu như trước thời điểm BIDV niêm yết, các cổ phiếu ngành ngân hàng chào sàn đều giảm giá thì giá cổ phiếu của chúng tôi đã tăng 0,5%; (ii) Khối lượng giao dịch cổ phiếu BID chiếm khoảng 12% khối lượng giao dịch của toàn sàn; (iii) Qua 9 phiên giao dịch, BID luôn là cổ phiếu dẫn dắt thị trường, đặc biệt khối lượng thanh khoản qua 9 phiên rất cao, thấp nhất thì cũng là 01 triệu cổ phiếu/phiên và cao nhất là 8,4 triệu cổ phiếu, điều đó khẳng định BID có tính thanh khoản tốt trên thị trường.

Thứ hai, trong những năm qua BIDV đã không ngừng tăng cường năng lực tài chính đảm bảo hoạt động kinh doanh bền vững. Hiện nay, vốn chủ sở hữu của BIDV đạt khoảng 28 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 9 nghìn tỷ đồng chỉ sau 3 năm.

Thứ ba, BIDV đã kiểm soát được nợ xấu và tính thanh khoản của hệ thống. Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, nợ xấu của BIDV giảm dần qua các năm từ chỗ 2,94% và hiện nay ở mức hơn 2,3%.

Thứ tư, BIDV tập trung tái cấu trúc lại nền khách hàng; Đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ với các sản phẩm, dịch vụ tiện ích với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ chuyên nghiệp, hiện đại.

Thứ năm, BIDV luôn quan tâm tái cơ cấu nguồn nhân lực, cụ thể: tiết giảm việc tuyển dụng mới, chỉ tập trung tuyển dụng theo vị trí công việc. Theo đó, tỷ lệ tăng biên chế giảm dần từ chỗ bình quân 10% từ năm 2011 trở về trước nhưng trong 3 năm trở lại đây, BIDV luôn gắn việc sắp xếp nguồn nhân lực với tăng trưởng lao động hợp lý, bình quân khoảng hơn 3%.

Đó là một số kết quả nổi bật toàn hệ thống BIDV đã đạt được, còn đối với tình hình tái cơ cấu các DNNN:

Thứ nhất, về kết quả của chặng đường tái cơ cấu trong 3 năm qua, các báo cáo đã nêu, ngoài ra cũng còn một số điểm nổi bật chưa được nêu trong báo cáo. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tổng số DN đã sắp xếp được 6.376 DN trong đó CPH được 3.659 DN, chuyển thành công ty TNHH một thành viên 1.033 DN, giao chủ quản 222 DN và bán 158 DN. Sau quá trình sắp xếp, đổi mới, số DN 100% vốn Nhà nước đã giảm từ 5.655 DN năm 2001 xuống còn 1.254 DN; DNNN đã và đang được sắp xếp theo hướng Nhà nước nắm giữ ở một số lĩnh vực như: cung ứng dịch vụ thiết yếu, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng, an sinh, xã hội, các sản phẩm công ích và các ngành, lĩnh vực liên quan thì chúng tôi thấy rằng tiến độ sắp xếp thì khoảng 80 % DN sau sắp xếp kinh doanh có lãi và khối DNNN vẫn đóng góp ~32% thu NSNN và tạo ra khoảng 30% GDP giai đoạn 2012-2013.

Thứ hai, kết luận số 50/KL/TƯ ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định DNNN lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Hiến pháp mới xác định kinh tế nhà nước là kinh tế chủ đạo nhưng trong Nghị quyết, trong Chỉ thị và trong chỉ đạo thì đâu phải kinh tế Nhà nước chỗ nào cũng là chủ đạo mà phải tùy theo ngành nghề, tùy theo lĩnh vực cụ thể. Đây là vấn đề cần nghiên cứu để có định hướng đúng.

Thứ ba, tại Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW Đảng (khóa XI) ngày 18/10/2011, trong Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 v/v “Phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020” và trong Đề án Tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011-2015 đã được ban hành theo Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ, đã xác định 5 yêu cầu, chỉ đạo chính về tái cơ cấu DNNN: (i) Rà soát, bố trí lại hệ thống DNNN; (ii) Thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành không phải kinh doanh chính; vốn nhà nước ở công ty cổ phần mà Nhà nước không cần chi phối; (iii) Tái cơ cấu DNNN theo ngành, lĩnh vực không phân biệt cấp, cơ quan quản lý; (iv) Tái cơ cấu tập đoàn, TCTNN toàn diện từ mô hình tổ chức, quản lý, nguồn nhân lực, ngành nghề kinh doanh, chiến lược phát triển, thị trường... (v) Hoàn thiện thể chế chính sách. 5 vấn đề này đã được nêu rõ trong thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính Phủ cũng nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan trọng trong năm 2014 là thực hiện tái cơ cấu DN, trọng tâm là CPH. Chúng tôi nhận thấy đây là nhiệm vụ trọng tâm rất “trúng và đúng”.

Những hạn chế trong tiến trình tái cơ cấu DNNN

Một là, nội dung tái cơ cấu DNNN mặc dù được tích cực triển khai song còn tương đối chậm so với yêu cầu, chưa có chiến lược, cách thức thực hiện còn rời rạc nên kết quả còn nhiều hạn chế, cụ thể:

(i) Tốc độ CPH, sắp xếp lại DNNN giảm đáng kể trong giai đoạn này. Nếu giai đoạn 2001-2011 có 3.000 DN CPH thì giai đoạn 2011-2013, tổng số DN sắp xếp là 180 DN, CPH 99 DN, đặc biệt, hai năm 2012 và 2013, con số DN CPH chỉ là 87. Đây áp lực rất lớn so với mục tiêu phải CPH được 432 DNNN giai đoạn 2014-2015. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: thứ nhất, một số cơ chế gây vướng mắc và chưa làm rõ. Ví dụ, việc đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN nhưng mà cách tính toán như thế nào? theo khung giá nhà nước? có tính lợi thế thương mại?; thứ hai, câu chuyện xác định giá trị thương hiệu, phương thức xác định như thế nào bởi đây là giá trị vô hình nên việc tính toán như thế nào cũng gây lúng túng trong quá trình thực hiện.

(ii) Công tác tái cơ cấu nguồn vốn và thoái vốn đầu tư ngoài ngành là một yêu cầu cấp bách song tiến độ triển khai chậm, khó khả thi theo tiến độ đến năm 2015 nếu không có sự thay đổi về tư duy và cách thức thực hiện. Nguyên nhân theo tôi là do: thứ nhất, sự chậm trễ và lúng túng trong xây dựng và phê duyệt các Đề án thoái vốn của các DNNN; phần lớn các đề án chúng ta phê duyệt là trong năm 2013 trong nội dung đó thì có nội dung thoái vốn nên chúng ta cũng chậm; thứ hai, cản trở lớn từ yêu cầu bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư trong bối cảnh TTCK không thuận lợi, BIDV cũng rất quyết tâm trong quá trình thoái vốn nhưng phải gắn với nhiệm vụ bảo toàn vốn, bởi thoái vốn mà dưới giá trị sổ sách là không đạt, cho nên cũng vẫn còn tồn tại tâm lý e ngại; thứ ba, khó khăn và lúng túng trong việc tìm đối tác để thoái vốn trong bối cảnh thị tường ảm đạm, chưa khởi sắc; thứ tư, quy định về thoái vốn còn phân tán, chưa bao quát hết sự đa dạng của các loại vốn cần thoái và không phù hợp với thị trường; thứ năm, xử lý tình trạng sở hữu chéo dưới nhiều hình thức chưa có chuyển biến mạnh, ví dụ một khách hàng vay ngân hàng đem cổ phiếu của một ngân hàng khác đến thế chấp nhưng không trả được nợ thì khi xử lý tài sản bảo đảm đương nhiên ngân hàng này không phải là người sở hữu chéo nhưng tự nhiên thành sở hữu chéo, do vậy, cần nghiên cứu, hướng dẫn thêm về quy định sở hữu chéo. Đây là những áp lực khiến vấn đề thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính khó khả thi, không hiệu quả.

(iii) Việc xây dựng, triển khai đề án tái cơ cấu DNNN theo ngành, lĩnh vực không phân biệt cấp, cơ quan quản lý còn chậm trễ, chưa có chuyển biến về chất. Việc phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ công ích chưa rõ ràng, minh bạch; DN không thuộc diện Nhà nước cần chi phối có tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước trên 51% vốn điều lệ còn cao; Các chính sách với các DN trong lĩnh vực công nghiệp quan trọng như công nghiệp cơ khí, CNTT, Công nghệ cao, CN chế tạo, công nghiệp phụ trợ chưa được hoàn thiện và ban hành; Cơ chế hỗ trợ, đảm bảo cho các DNNN được giao hoạt động trong lĩnh vực cần thiết, thiết yếu của nền kinh tế song có mức sinh lời thấp mà khu vực kinh tế tư nhân không có khả năng tham gia vẫn chưa được đầy đủ... Việc tái cơ cấu thời gian qua phần lớn tập trung ở những DN lớn và có hoạt động thua lỗ như Vinashin, Vinalines nhưng còn các DN khác chúng ta chưa làm đến nơi đến chốn. 

Hai là, xét về hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù quá trình sắp xếp, đổi mới và CPH các DNNN đã đem lại một số kết quả tích cực song những điểm chưa tích cực của DNNN mà xã hội đều có thể nhìn nhận đó là hiệu quả chưa tương xứng với vị trí và kỳ vọng của xã hội. Theo báo cáo của Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch & Đầu tư, hệ số ICOR của DNNN vẫn cao và cao vượt trội so với DN ngoài quốc doanh, điều này bản thân DN chúng ta cũng phải suy nghĩ. Thứ hai là mặc dù đóng góp của khu vực DNNN trong GDP chỉ khoảng 32% song sử dụng đến 60% tổng tín dụng của nền kinh tế; đây cũng là vấn đề chúng ta phải suy nghĩ. Năng suất lao động và sức cạnh tranh của các DNNN nhìn chung thấp và suy giảm; nợ đọng tích tụ của DNNN đã lên tới 145.000 tỷ đồng, dự báo trong đó 20-30% là nợ không thể hoàn trả trong khi đó 60% dư nợ tín dụng đổ vào các đơn vị này thì nó cũng ảnh hưởng đến ngân hàng. Đây cũng là vấn đề cần xem xét.

8 đề xuất quan trọng

Thứ nhất, theo Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ, nếu không thoái được vốn đến năm 2015 thì phải làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và phải báo cáo Thủ tướng, báo cáo lại Bộ Chính trị. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng trong tình hình hiện nay thì điều đó là rất khó vì theo nguyên tắc thị trường sẽ có 2 trạng thái xảy ra: Thứ nhất, với những DN có đầu tư ngoài ngành nhưng thua lỗ thì xử lý như thế nào? Thứ hai, với những DN có đầu tư ngoài ngành hiệu quả thì ứng xử ra sao?

Thứ hai, tại kết luận số 50 ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI có nêu: tăng cường lãnh đạo của Đảng trong việc sắp xếp, phát triển, nâng cao hiệu quả DN nhưng cho đến nay cũng chưa có hướng dẫn cụ thể khiến việc triển khai còn nhiều lúng túng…

Thứ ba, hiện nay quy định ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn chưa khớp giữa dự thảo Nghị quyết, Chỉ thị và Quyết định. Chẳng hạn, BIDV theo quyết định phê duyệt thì Nhà nước duy trì sở hữu 65% trở lên nhưng trong dự thảo Quyết định thì BIDV lại thuộc đối tượng trên 50% đến 65%. Đối với vấn đề này, chúng tôi cũng xin đề nghị Thủ tướng như sau: Với hệ thống ngân hàng thì chỉ để lại một số NHNN như NH Chính sách, NH Phát triển, NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, còn lại các ngân hàng đã CPH thì nên duy trì tỷ lệ có sở hữu của NHNN với lộ trình sau: ngay sau việc chào sàn niêm yết lần đầu thì có thể là ở mức 65%, còn sau đó kỳ kế hoạch có thể giảm xuống 51-55%, về bản chất vẫn là Nhà nước chi phối. Điều này rất quan trọng bởi nó tạo tính hấp dẫn cho các Nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, việc hoàn thiện các thể chế, cơ chế chính sách có liên quan đến tái cơ cấu DNNN được giao cho các bộ, ngành song cũng cần giao cho DNNN, Đảng ủy khối DNTƯ cùng các Tập đoàn, Tổng công ty phối hợp cùng thực hiện. Bởi vì DNNN vừa là đối tượng, vừa là chủ thể trực tiếp tham gia trong hoạt động và thực thi các cơ chế chính sách này, như vậy sẽ tránh được tình trạng khi văn bản ban hành ra rồi thì không đi vào cuộc sống, không đi vào thực tiễn nhưng để sửa được thì mất rất nhiều thời gian và kéo dài quá lâu...

Thứ năm, tiền lương hiện nay chưa theo thị trường. Lương của Chủ tịch tập đoàn tối đa là 36 triệu, chúng tôi chưa hiểu cơ sở của việc xác định mức khung trên, trong khi đó nếu theo nguyên tắc thị trường thì người lao động và người quản lý phải được hưởng lương theo năng suất lao động, đấy là nguyên tắc tối thượng... Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi theo nguyên tắc thị trường về thu nhập tiền lương của DNNN.

Thứ sáu, theo lộ trình thì kết thúc năm 2015 chúng ta chỉ còn 485 DN do Nhà nước sở hữu 100%, cùng với tiêu chí phân nhóm lại có khoảng hơn 1.000 DN thì ai, đơn vị nào chịu trách nhiệm quản lý? Về vấn đề này, đề nghị Chính phủ chỉ đạo có nghiên cứu rõ và cũng nên khảo sát kinh nghiệm ở một số nước.

Thứ bảy, về việc mở room cho nhà đầu tư nước ngoài, những DN mà Nhà nước không cần nắm giữ chi phối, có thể mở room lên 60-65%. Dự thảo lần đầu cho DN mở room mạnh hơn nhưng chưa có quyết định phê duyệt của Thủ tướng. Hy vọng rằng, tới đây Thủ tướng Chính phủ sẽ sớm đồng ý cho phép mở room cho nhà đầu tư nước ngoài gia tăng vốn đầu tư, như vậy, có thể kích hoạt và làm nóng được thị trường chứng khoán, từ đó bất động sản và kéo theo nhiều ngành khác cũng tốt lên.

Thứ tám, ngoài Đề án của Agribank, đề nghị NHNN sớm phê duyệt một số đề án của các ngân hàng khác về việc sắp xếp tái cơ cấu các tổ chức tín dụng có sở hữu Nhà nước chi phối trong quý I/2014 để có cơ sở triển khai thực hiện.

(*) Tít bài và tít phụ do FinancePlus.vn đặt.