Thực trạng quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Số liệu báo cáo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 2014 - 2015 được tổ chức mới đây cho thấy, tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các DN có vốn đầu tư nhà nước tương đối ổn định. Đặc biệt, hoạt động sản xuất kinh doanh của khối các tập đoàn (TĐ), tổng công ty (TCT) dù trong thời gian gần đây, tăng trưởng chậm hơn nhưng vẫn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động của các DNNN trên toàn quốc. Vốn nhà nước đầu tư vào DN tăng từ 136.000 tỷ đồng trước năm 2006 lên đến trên 912.000 tỷ đồng vào năm 2012, trong đó, vốn đầu tư vào các công ty mẹ là 857.000 tỷ đồng. Các DNNN tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong nền kinh tế; là công cụ quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội…

Tuy nhiên, khi nền kinh tế lâm vào khó khăn kéo dài, hoạt động kinh doanh cũng như tình hình tài chính của các TĐ, TCT đã bộc lộ nhiều hạn chế. Theo báo cáo hợp nhất, tổng số nợ phải trả của TĐ, TCT năm 2012 là 1.348.752 tỷ đồng, tăng 6% so với năm 2011, chiếm 56% tổng nguồn vốn. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2012 là 1,46 lần. Trong đó, có 48 TĐ, TCT có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, như: TCT xây dựng Bạch Đằng (20,97 lần); TCT Xây dựng công trình giao thông 8 (20,02 lần); TCT Xây dựng công trình giao thông 1 (18,41 lần); TCT Đầu tư phát triển Đường cao tốc (14,04 lần); TCT Xây dựng Hà Nội (12,15 lần)… Điều đáng nói là nhiều TĐ, TCT đang có nợ quá hạn khá cao như: TĐ Dầu khí Quốc gia Việt Nam (nợ quá hạn 2.174 tỷ đồng); TCT Hàng hải Việt Nam (6.681 tỷ đồng); TCT Cà phê Việt Nam (153 tỷ đồng); TCT Chè Việt Nam (26 tỷ đồng)… Bên cạnh đó, các khoản nợ phải thu của các TĐ, TCT năm 2012 đã lên đến con số 275.975 tỷ đồng. Trong đó, nợ phải thu khó đòi là 13.490 tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2011, chiếm 4,89% tổng số nợ phải thu. Tỷ lệ nợ phải thu/tổng tài sản năm 2012 là 11,5% (năm 2011 là 14,4%). Một số công ty mẹ có tỷ lệ nợ phải thu/tổng tài sản ở mức cao (trên 50%) như: Công ty mẹ - TCT Xây dựng công trình giao thông 8 (nợ phải thu 1.036,885 tỷ đồng, bằng 66%); Công ty mẹ - TCT Xây dựng công trình giao thông 5 (nợ phải thu 684,357 tỷ đồng, bằng 62%); Công ty mẹ - TCT Xây dựng Thăng Long (nợ phải thu 795,466 tỷ đồng, bằng 60%); Công ty mẹ - TCT Thành An (nợ phải thu 839,628 tỷ đồng, bằng 56%); Công ty mẹ - TCT Xây dựng Trường Sơn (nợ phải thu 808,674 tỷ đồng, bằng 55%)... Ngoài ra, dư nợ vay ngân hàng của DNNN lớn, lên tới 402.955 tỷ đồng, chiếm đến 43,7% tổng nguồn vốn.

Báo cáo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố mới đây cũng khẳng định, yếu kém của DNNN đã gây tác động tiêu cực lên "bức tranh" nợ xấu. Tính đến cuối 2012, nợ xấu của DNNN (chưa tính Vinashin) chiếm 11,8% tổng nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng; ước tính nợ xấu của DNNN khoảng 24.950 tỷ đồng. Con số này chưa bao gồm nợ xấu của Vinashin tại các tổ chức tín dụng trong nước và nợ đã được cơ cấu lại theo Quyết định 780/2012/ QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.

Nếu như phần khu vực DNNN còn lại (không kể Vinashin) chiếm 15% số nợ đã được cơ cấu lại (ước khoảng 28.300 tỷ đồng) thì tổng số nợ xấu và nợ cơ cấu lại của khu vực DNNN sẽ khoảng hơn 73.000 tỷ đồng.

So sánh sự đóng góp của khu vực DNNN với các thành phần kinh tế khác trong xã hội cho thấy, DNNN có đóng góp vào GDP khu vực DN tư nhân; DNNN phải sử dụng tới 2,2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng doanh thu, trong khi DN tư nhân là 1,2 đồng vốn và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 1,3 đồng vốn. Một số TĐ, TCT nhà nước có nhiều lợi thế kinh doanh nhưng trong nhiều năm qua, tỷ suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chỉ ở mức xấp xỉ 6%, trong khi các DN FDI luôn ở mức khoảng trên 10%/năm.

Quản lý, sử dụng nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Thực trạng và một số kiến nghị - Ảnh 1

Bên cạnh thực trạng sử dụng nguồn vốn nhà nước tại DN thì cơ chế, chính sách quản lý DNNN còn nhiều bất cập như: hệ thống quản trị nội bộ DN chưa đáp ứng được các yêu cầu quản lý, giám sát hiệu quả sử dụng các nguồn lực được Nhà nước giao; tính tuân thủ pháp luật, chế độ quản lý tài chính, công khai, minh bạch thông tin của các DN chưa được quan tâm đúng mức; sự tách bạch giữa nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ công ích của DN chưa rõ ràng; sự phân công, thực thi vai trò đại diện chủ sở hữu trong DNNN còn phân tán, chồng chéo; quá trình tổ chức, cơ cấu lại khu vực DNNN tiến hành chậm, kéo dài. Việc thí điểm chuyển các TCT sang hoạt động theo mô hình TĐ, công ty mẹ - công ty con cũng bộc lộ nhiều bất cập như: Số lượng đơn vị thành viên gia tăng nhanh không tương xứng với năng lực quản lý, điều hành của TĐ, TCT; Tình trạng đầu tư đa ngành dàn trải, đầu tư và sở hữu chéo giữa các DN, gây khó khăn cho việc kiểm tra, giám sát sử dụng đồng vốn nhà nước; Việc chuyển đổi các công ty nhà nước sang hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chưa có sự đổi mới thực chất về cơ chế, chính sách quản lý, chưa có tác động nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DN sau chuyển đổi.

Thực tế trong những năm qua, hành lang pháp lý về đầu tư, quản lý và sử dụng nguồn vốn nhà nước tại DN đã cơ bản được hình thành, khắc phục được một số tồn tại, bất cập trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng vốn, tài sản của DNNN đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hệ thống pháp lý này mới chỉ dừng lại ở nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành nên chưa bao quát được hết các loại hình DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt, cơ chế tài chính cho các TĐ, TCT; chế độ về quản lý rủi ro, báo cáo và công bố thông tin, đánh giá xếp loại DN; cơ chế tài chính cho hoạt động mua bán sáp nhập DN, thanh lý phá sản dự án lớn thua lỗ vỡ nợ, xử lý về mặt tài chính đối với DN liên quan bán phá giá... Bên cạnh đó, cơ chế phân công, phân cấp trong thực hiện các quyền chủ sở hữu tại DNNN còn bị phân tán, chồng chéo, trùng lặp và không rõ phạm vi. Phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn kinh tế khó khăn gắn với an ninh, quốc phòng và đảm bảo chủ quyền quốc gia còn hạn chế.

Mặt khác, quy định pháp lý điều chỉnh các nhóm nội dung liên quan đến DNNN chưa được luật hóa kể từ thời điểm Luật DNNN năm 2003 hết hiệu lực. Trong khi đó, Luật DN năm 2005 có phạm vi điều chỉnh tập trung vào việc thành lập, mô hình tổ chức của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng chưa giải quyết được các vấn đề đặc thù cho DNNN như việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN…

Trong giai đoạn 2007-2012 tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng khối DNNN vẫn đạt lợi nhuận trên vốn trung bình khoảng 16%/năm; số DN thua lỗ và hòa vốn giảm mạnh, từ 60% xuống còn 20% năm 2012; nộp ngân sách tăng bình quân 10-30%/năm; sắp xếp, cổ phần hóa đã đạt được trên 6.000 DN; tái cơ cấu DNNN bước đầu đã có một số kết quả tích cực...

Một số giải pháp và kiến nghị

Để nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn nhà nước đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại DN, thúc đẩy nhanh tái cơ cấu DNNN, ngay từ bây giờ cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, sớm hoàn thiện dự thảo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh để trình Quốc hội ban hành trong năm 2014. Theo đó cần: Xác định rõ phạm vi, đối tượng, mục tiêu, hình thức và thẩm quyền đầu tư vốn nhà nước, trong đó, khái niệm vốn nhà nước đầu tư vào DN cũng cần phải làm rõ để đảm bảo yêu cầu quản lý, giám sát của Nhà nước, cũng như đảm bảo hoạt động kinh doanh của DN. Theo Luật DN, Nhà nước thực hiện giao vốn, bổ sung vốn cho DN khi DN 100% vốn nhà nước đầu tư thành lập công ty con do công ty mẹ nắm 100% vốn điều lệ. Điều này đồng nghĩa công ty con là do Nhà nước đầu tư vốn, trên thực tế, công ty mẹ có thể sử dụng nguồn huy động, nguồn vốn khác (không phải vốn đầu tư của Nhà nước) để đầu tư thành lập công ty con. Do đó, phải xác định rõ khái niệm và phạm vi vốn nhà nước đầu tư vào DN là số vốn nhà nước đầu tư trực tiếp vào công ty mẹ là TĐ, TCT hoặc các DNNN độc lập, Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn (thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng). Mặt khác, việc đầu tư chéo giữa các DN trong cùng tổ hợp, TĐ cũng cần được nghiên cứu, hướng dẫn kỹ. Theo quy định hiện nay, đối với DNNN thì các công ty con không được đầu tư ngược lại công ty mẹ. Tuy nhiên, Luật DN chưa có nội dung nào quy định việc này và thực tế các DN thuộc các thành phần kinh tế khác cũng đã thực hiện việc đầu tư chéo, đầu tư ngược lại này. Theo đó, để đảm bảo vận hành thống nhất cần có quy định chung đối với vấn đề này, không nên để các công ty con đầu tư ngược lại vào công ty mẹ trong cùng tổ hợp, TĐ. Việc xác định rõ tổ chức, hình thức, tiêu chí và chế tài để thực hiện việc quản lý, giám sát vốn quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN cũng cần được quy định cụ thể.

Thứ hai, trong giai đoạn Luật chưa được ban hành và khi Luật đã được ban hành nhưng chưa có hiệu lực thì các cơ quan hữu quan cần có các văn bản hướng dẫn, quy định về quản lý, giám sát vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tiễn và quy định tại Luật DN năm 2005. Điển hình như: Hoàn thiện quy định phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN. Mặt khác, thành lập cơ quan để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, quản lý sử dụng, bảo toàn, phát triển vốn và đánh giá hiệu quả vốn nhà nước đầu tư vào DN; Hoàn thiện cơ chế đầu tư, kinh doanh, quản lý tài chính đối với DN và cơ chế phân phối lợi nhuận trong DN theo cơ chế thị trường; Minh bạch báo cáo tài chính, thông tin tài chính, kinh doanh, điều hành TĐ, TCT; Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với DN sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, quốc phòng, an ninh bảo đảm người lao động có mức thu nhập hợp lý, DN có lãi, thu hút được nguồn lực của xã hội tham gia...

Thứ ba, quyết liệt thực hiện tái cơ cấu DN theo đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, cần xác định rõ cơ cấu lại vốn, tài sản theo hướng xác định nhu cầu vốn đầu tư, vốn điều lệ, nguồn bổ sung vốn; rà soát và có giải pháp xử lý triệt để các khoản nợ tồn đọng không có khả năng thu hồi; tính toán đề xuất phương án xử lý nợ không có khả năng thu hồi và nguồn bù đắp; tính toán xác định chi phí xử lý lao động dôi dư theo chế độ; xây dựng phương án cơ cấu lại tài sản bằng cách chuyển nhượng, sáp nhập các dự án, các khoản đầu tư không hiệu quả hoặc chưa cấp thiết để tập trung nguồn lực cho hoạt động kinh doanh chính. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện thoái vốn đầu tư ngoài ngành hoàn thành trước năm 2015.

Thứ tư, tăng cường quản lý giám sát tài chính DN, nâng cao hiệu quả quản lý vốn và tài sản nhà nước tại DN, hạn chế sự can thiệp hành chính, gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN.

Thứ năm, tiếp tục có chính sách hỗ trợ DN phát triển bền vững, hiệu quả. Để hỗ trợ giúp các DN phát triển phù hợp với cam kết hội nhập, Chính phủ cần xây dựng và đưa ra các định hướng chiến lược phát triển ngành, vùng dài hạn làm cơ sở cho DN hoạt động. Đồng thời, tập trung hỗ trợ các DN về tài chính, khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin để giúp các DN xây dựng một hệ thống thông tin đồng nhất phục vụ công tác kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu, của xã hội đảm bảo công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế; tập trung đào tạo xây dựng đội ngũ lãnh đạo DN nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển và thực hiện các quyền của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong các DN.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo Hội nghị tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2014-2015;

2. Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại DN;

3. Báo cáo "Thách thức còn ở phía trước" - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội;

4. Báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các TĐ, TCT nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

5. Báo cáo tình hình thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN;

6. Số liệu của Tổng cục Thống kê; các bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính...

Quản lý, sử dụng nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Thực trạng và một số kiến nghị

TS. PHẠM THỊ VÂN ANH

(Tài chính) Làm thế nào để quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh là vấn đề "nóng" từ nghị trường Quốc hội đến đông đảo dư luận trong suốt thời gian qua. Với thực trạng quản lý, sử dụng nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ từ hành lang pháp lý đến công tác quản lý, điều hành và sử dụng nguồn vốn này để đem lại hiệu quả cao nhất.

Xem thêm

Video nổi bật