Quyền lợi của người gửi tiền khi Ngân hàng bị thu hồi giấy phép

PV.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định về trình tự, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Theo nội dung dự thảo, đối tượng áp dụng của Thông tư bao gồm TCTD; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thu hồi Giấy phép của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện; tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thanh lý tài sản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đối tượng áp dụng của Thông tư không bao gồm ngân hàng chính sách và Quỹ tín dụng nhân dân.

Trong dự thảo đã quy định chi tiết quy trình thu hồi Giấy phép của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong 3 trường hợp là: Tổ chức tự đề nghị thu hồi giấy phép, bị thu hồi giấy phép và bị phá sản. Cụ thể:

Trường hợp tổ chức tự đề nghị thu hồi Giấy phép thì phải phải thuê tổ chức kiểm toán độc lập, cơ quan chuyên môn đánh giá thực trạng tài chính, định giá tài sản và xác định giá trị doanh nghiệp trong quý gần nhất và trong năm liền kề trước thời điểm đề nghị. Đồng thời xây dựng phương án thanh lý tài sản trên cơ sở báo cáo tài chính đã được kiểm toán và lập hồ sơ gửi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

Trường hợp bị thu hồi Giấy phép thì căn cứ kết quả thanh tra, giám sát; đề nghị của NHNN chi nhánh hoặc đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có tờ trình, đề nghị Thống đốc có văn bản đình chỉ hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Trong thời hạn tối đa 60 ngày kể từ ngày văn bản đình chỉ hoạt động có hiệu lực thi hành, TCTD, chi nhánh NH nước ngoài phải xây dựng xong phương án thanh lý tài sản kèm hồ sơ thu hồi Giấy phép.

Trường hợp tổ chức tín dụng bị phá sản, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có tờ trình đề nghị Thống đốc ra quyết định thu hồi Giấy phép sau khi Thẩm phán chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Về quyền lợi của người gửi tiền, tại Điều 14 của dự thảo nêu rõ về quy định phân chia tài sản sau thu hồi Giấy phép như sau:

Các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt đã được Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác cho vay đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hỗ trợ tài chính phải hoàn trả lại giá trị của các khoản vay (hỗ trợ) này trước.

Sau đó, các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện phân chia tài sản theo thứ tự như sau:

Thứ nhất là chi trả các khoản lệ phí, chi phí theo quy định của pháp luật cho việc thực hiện thanh lý tài sản;

Thứ hai là các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội đối với người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;

Thứ ba là các khoản nợ thuế;

Thứ tư là, các khoản chi trả cho người gửi tiền của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và các khoản tiền gửi của người gửi tiền.

Thứ năm là các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được ưu tiên thanh toán bằng chính tài sản thế chấp hoặc cầm cố đó. Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Cuối cùng là chi trả cho các khoản nợ không có bảo đảm, theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.

Trường hợp giá trị tài sản của TCTD sau khi đã thanh toán đủ các khoản theo quy định như trên mà vẫn còn thì phần giá trị tài sản còn lại được chia đều cho các cổ đông, chủ sở hữu, thành viên sáng lập, thành viên góp vốn theo tỷ lệ góp vốn tại thời điểm thực hiện việc phân chia tài sản. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì phần giá trị tài sản còn lại do ngân hàng mẹ quản lý.