Sửa các Luật để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn

Theo baohaiquan.vn

Thảo luận ở Hội trường Quốc hội (QH) về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và dự án Luật thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đồng tình với Chính phủ khi cho rằng, cần thiết phải sửa các Luật thuế nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập sâu rộng sắp tới, cũng như tạo điều kiện giúp DN vượt qua khó khăn.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Luật hóa để bảo vệ sản xuất trong nước

ĐB Nguyễn Anh Dũng (Bắc Giang) cho rằng, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế XK, thuế NK vì qua 10 năm, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới đã có nhiều thay đổi lớn. Do đó, một số quy định của luật đã bộc lộ những tồn tại, không còn phù hợp, cần thiết phải sửa đổi để đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập của đất nước. ĐB cho rằng, để hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, thách thức, ổn định sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thì cần thiết phải có giải pháp về thuế phù hợp, đáp ứng kịp thời những yêu cầu mà thực tiễn đã đặt ra.

ĐB Dương Hoàng Hương (Phú Thọ) tán thành cao việc bổ sung luật hóa các quy định về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ tại dự thảo Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi). Theo ĐB, đây là các công cụ, biện pháp cụ thể phù hợp để bảo vệ sản xuất trong nước khi tham gia hội nhập. Tuy nhiên, các quy định về 3 loại thuế này còn khá sơ lược, mới chỉ khái quát được một số vấn đề chung nhất về nguyên tắc, về điều kiện và thời hạn áp dụng. Do đó, ĐB đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu và bổ sung các nội dung này để luật có tính xác định rõ ràng hơn, đảm bảo căn cứ pháp lý cho việc thực hiện.

Góp ý cụ thể vào dự thảo Luật, ĐB Nguyễn Minh Lâm (Long An) cho rằng, quy định tại dự thảo Luật về đối tượng chịu thuế: "Đối tượng chịu thuế XK, NK gồm hàng hóa XK, NK qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, hàng hóa XK từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan, hàng hóa NK từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước", cần phải xem xét thêm. ĐB cho rằng, nếu quy định như dự thảo là không bao quát hết đối tượng chịu thuế, sẽ phát sinh những trường hợp hàng hóa XNK tại chỗ dù có thuế nhưng vẫn không phải nộp thuế. ĐB đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp.

Về quy định: "Đại lý làm thủ tục hải quan trong trường hợp được người nộp thuế ủy quyền nộp thuế XK, thuế NK", theo ĐB Nguyễn Minh Lâm là chưa phù hợp. Bởi vì, trong trường hợp DN làm thủ tục hải quan qua đại lý hải quan thì đều phải có hợp đồng thuê đại lý để làm cơ sở thanh toán phí dịch vụ, cũng như ràng buộc trách nhiệm giữa các bên. Do đó, trường hợp này chỉ cần chủ hàng thỏa thuận để đại lý hải quan nộp thuế XNK trong nội dung hợp đồng vào sao y, hoặc gửi kèm thông tin đến hệ thống của cơ quan Hải quan là đủ để thực hiện. Do đó, ĐB đề nghị sửa Điểm a, Khoản 6, Điều 3 lại thành: "Đại lý làm thủ tục hải quan trong trường hợp được người nộp thuế thỏa thuận nộp thuế XK, thuế NK trong hợp đồng thuê đại lý".

Về thẩm quyền ban hành biểu thuế, thuế suất tại dự thảo Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi), trước đó, trong báo cáo thẩm tra, Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội đã nhất trí với Tờ trình của Chính phủ chỉ ban hành kèm theo Luật này Biểu thuế xuất khẩu theo Danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với từng nhóm hàng (gồm 45 nhóm được chuyển từ Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng ban hành kèm theo Nghị quyết 710/2008/NQ-UBTVQH12).

Đồng thời, để bảo đảm xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung Biểu thuế xuất khẩu theo Danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với từng nhóm hàng ban hành kèm theo Luật này khi Chính phủ trình.

Nhiều ĐBQH đồng tình với phương án này của Chính phủ. ĐB Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) cho rằng, việc giao thẩm quyền ban hành Danh mục và khung thuế suất cho Chính phủ thay vì Bộ Tài chính như hiện nay sẽ tạo sự ổn định cao hơn phù hợp với xu hướng khi Việt Nam tham gia sâu rộng các Hiệp định thương mại tự do.

Sửa các luật về thuế, chỉ số cải cách thuế sẽ "nâng hạng"

ĐB Nguyễn Cao Phúc (Quảng Ngãi) đánh giá cao nỗ lực của Bộ Tài chính trong thời gian qua đã thực hiện quyết liệt về cải cách thủ tục hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 19 của Chính phủ, vì vậy chỉ số nộp thuế của Việt Nam đã tăng mạnh, từ hạng 172 lên 168. Đây là thành quả bước đầu đáng khích lệ. ĐB tin tưởng rằng, sau lần sửa đổi Luật lần này, chỉ số nộp thuế của Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện. Do đó, ĐB cơ bản thống nhất với giải trình của Ủy ban Tài chính-Ngân sách của QH về 2 nội dung về sửa đổi thuế GTGT, nhằm hỗ trợ DN thuận lợi trong điều kiện hội nhập, khuyến khích nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời tăng cường quản lý thuế, hoàn thuế, chống thất thu ngân sách.

ĐB Nguyễn Cao Phúc cũng đồng tình với bổ sung quy định làm rõ giá tính thuế TTĐB đối với trường hợp cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất bán hàng cho cơ sở kinh doanh thương mại để đảm bảo minh bạch, công bằng với sản xuất hàng hóa ở trong nước, đồng thời tạo tính cạnh tranh lành mạnh, tăng cường quản lý thuế và chống thất thu ngân sách.

Trước ý kiến của một ĐB trước đó cho rằng, trong khi các quy định về Luật thuế GTGT và Luật Quản lý thuế mới được QH sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015 và Luật thuế TTĐB sửa đổi đến ngày 1-1-2016 này mới có hiệu lực thi hành thì nay đã được đề nghị tiếp tục sửa, ĐB Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) cho rằng, nếu cần thiết thì “vẫn phải sửa”. Vấn đề đặt ra là phải minh bạch, rõ ràng, giúp cho việc thực hiện thống nhất, tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước và các DN.

Về tỷ lệ tính tiền chậm nộp thuế sửa đổi tại Luật Quản lý thuế nhận được nhiều ý kiến của ĐBQH. ĐB Phan Văn Quý (Nghệ An) bày tỏ nhất trí với việc giảm mức phạt chậm nộp tiền thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN gặp khó khăn, không có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tuy nhiên, theo ĐB việc điều chỉnh mức phạt chậm nộp là 0,03%/ngày, tính trên số tiền thuế chậm nộp, tương đương với 10,95% năm như dự thảo chưa phù hợp, vì tỷ lệ này thấp hơn so với mức lãi suất của các ngân hàng thương mại, dễ dẫn đến tình trạng DN trây ì, chậm nộp thuế. Do vậy, ĐB đồng ý với ý kiến của một số ĐB trước đó đã đề xuất, nên quy định tỷ lệ tính tiền chậm nộp theo mức bằng 0,04% ngày, tính trên số tiền thuế chậm nộp, tương đương 14,6% năm là hợp lý, vì tỷ lệ này thấp hơn mức quy định của Luật cũ nhưng cao hơn với mức lãi suất của các ngân hàng thương mại, nên sẽ thúc đẩy DN nộp thuế đúng hạn.

Thận trọng giảm thuế ô tô

Đối với thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô, ĐB Nguyễn Cao Phúc đồng tình với một số ĐBQH phát biểu trước đó. ĐB đề nghị cơ quan soạn thảo cần cân nhắc thêm về cơ cấu ngân sách, nhất là thu từ dầu thô sụt giảm, thuế xuất nhập khẩu sẽ điều chỉnh theo lộ trình, các hiệp định FTA sắp có hiệu lực. Đồng thời cần cân nhắc thêm về cơ sở hạ tầng giao thông tác động như thế nào khi điều chỉnh giảm các mức thuế đối với dòng xe phổ thông khi tiêu thụ ra thị trường.

ĐB Lê Văn Lai (Quảng Nam) đề nghị nên giữ nguyên, hoặc giảm ở mức thấp, bởi từ nay đến năm 2018 chúng ta phải giảm thuế ô tô theo cam kết với ASEAN. ĐB này cho rằng: “Ngành sản xuất ô tô trong nước chi phí đang cao hơn 20% so với các nước trong khu vực nên nếu giảm thuế sẽ không thể hỗ trợ DN trước sức ép cạnh tranh. Không cẩn thận DN ô tô nước ngoài sẽ được lợi kép từ việc giảm thuế”.

ĐB Hồ Thị Thủy lo ngại, thu ngân sách cũng sẽ bị bất lợi vì dòng xe nhỏ được giảm trong khi dòng xe này chiếm hơn 70% thị phần, xe được nhập ồ ạt gây áp lực lên hạ tầng giao thông và việc làm của người lao động. Do đó, việc ban hành chính sách cần hài hòa đảm bảo lợi ích của các bên liên quan. “Khi thị trường ô tô chưa đủ lớn thì Nhà nước phải hỗ trợ cho họ, có như vậy mới thúc đẩy được ngành ô tô Việt Nam tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt"- bà Thủy băn khoăn.

Cùng chung quan điểm này, ĐB Đặng Thế Vinh (Hậu Giang) lo ngại việc giảm thuế đối với ô tô sẽ khuyến khích tiêu dùng trong khi hạ tầng đô thị không đảm bảo. ĐB Nguyễn Cao Phúc (Quảng Ngãi), ĐB Dương Hoàng Hương (Phú Thọ) trong ý kiến phát biểu của mình cũng đề nghị cơ quan soạn thảo cần cân nhắc thêm tác động của việc giảm thuế đối với ô tô đến cân đối ngân sách bởi ngân sách Nhà nước sẽ giảm thu, hạ tầng giao thông bị tác động và liệu có dẫn đến tình trạng “bùng nổ” số lượng ô tô lưu thông trong khi hạ tầng đã quá tải.