Tác động của chính sách quản lý thị trường vàng lên giá vàng - ngoại hối

Theo Báo Công lý

Chính sách quản lý thị trường vàng (mấu chốt là vàng miếng SJC ) từ năm 2010 đến nay đã góp phần rất lớn ổn định thị trường ngoại hối, ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô…

Tác động của chính sách quản lý thị trường vàng lên giá vàng - ngoại hối
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Thế nhưng mục tiêu quản lý thị trường vàng là bình ổn và đưa giá vàng trong nước về sát giá thế giới thì vẫn chưa thực hiện được.

Trước khi có Nghị định 24/2012/NĐ-CP (NĐ 24) về quản lý vàng thì việc kinh doanh vàng hoàn toàn tự do theo đúng nghĩa của kinh tế thị trường và việc kinh doanh vàng cũng không ảnh hưởng nhiều đến tỷ giá hối đoái, đến tính ổn định của hệ thống ngân hàng, chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế hầu như không có nên không gây ra áp lực dư luận xã hội và quản lý nhà nước với vàng.

Từ năm 1989, khi Công ty TNHH MTV Vàng bạc đá quý Sài Gòn - SJC cho ra đời sản phẩm vàng miếng SJC đã đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của người dân khi mua vàng có chất lượng  được đảm bảo bằng một thương hiệu của tổ chức kinh doanh của Nhà nước. Do vậy việc mua bán vàng miếng SJC trên thị trường phát triển mạnh mẽ đến nay. Sau vàng miếng SJC,  có vài thương hiệu vàng miếng khác ra đời nhưng vàng miếng SJC vẫn chi phối 90-95% thị trường vàng miếng trong nước và doanh thu vàng miếng cũng chiếm tới 70-80% doanh thu mua bán vàng trên toàn thị trường. Khi đó việc gia công vàng miếng, chuyển đổi vàng nguyên liệu thành vàng SJC tương đối dễ dàng cho cả các cá nhân và tổ chức kinh doanh vàng. Nhờ nguồn cung vàng miếng SJC luôn đáp ứng nhu cầu của thị trường, giá vàng trong nước luôn dao động và theo sát giá vàng thế giới.

Đến năm 2009, thị trường vàng trong nước vẫn còn ảm đạm, việc mua bán vàng của người dân chủ yếu là cho tích lũy, trang sức, chưa có hiện tượng đầu cơ thu gom, thị trường vàng không ảnh hưởng đến tỷ giá ngoại tệ trên thị trường ngoại hối và thị trường tự do, giá vàng trong nước luôn bám sát, cân bằng và có nhiều lúc thấp hơn giá vàng thế giới. Giá vàng phiên giao dịch kết thúc của năm 2009 ở mức 1.096,20 USD/ounce, tăng 24,8% trong năm 2009 và là mức tăng giá mạnh nhất trong vòng 3 thập kỷ.

Năm 2010, giá vàng thế giới biến động mạnh, phiên giao dịch kết thúc năm 2010 là 1.405,6 USD/ounce , tăng so với phiên cuối năm 2009 là 28,25%. Giá vàng trong nước cũng biến động theo, nên bắt đầu tạo ra làn sóng đầu cơ vàng và chủ yếu là vàng miếng SJC. Trong khi giá vàng biến động mạnh, nhu cầu vàng miếng SJC lớn, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp phép nhập vàng hạn chế, nên thị trường khan hiếm vàng miếng SJC dẫn đến chênh lệch giá vàng miếng và vàng thế giới  cao. Do vậy, dẫn đến hiện tượng gom USD trên thị trường tự do để nhập lậu vàng nguyên liệu về đặt, đổi gia công vàng miếng SJC làm cho thị trường ngoại tệ tự do tăng bất thường kéo thị trường ngoại hối nhà nước rối loạn và chao đảo.

NHNN bắt đầu nhìn nhận vàng miếng làm ảnh hưởng xấu đến tỷ giá ngoại hối, gây bất ổn hệ thống ngân hàng, nền tài chính quốc gia, bất ổn cục bộ kinh tế. Một loạt biện pháp chống vàng hóa, đồng thời công bố chính sách quản lý thị trường vàng, chỉ công nhận và đưa vàng miếng SJC do NHNN quản lý gia công, đưa ra lộ trình cấm buôn bán vàng miếng, cấm các thương hiệu vàng miếng khác gia công. Cùng với một số biện pháp khác về tiền tệ, thị trường ngoại tệ tự do cũng như thị trường ngoại hối ngân hàng đi vào ổn định, ngân hàng có điều kiện mua ngoại tệ, việc nhập lậu vàng được khắc phục cơ bản. Khi đó cho dù thị trường ngoại hối vẫn còn hết sức khó khăn, dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2010 ước là 10 tỷ USD,  năm 2010 Việt Nam nhập siêu khoảng 12,3 tỷ USD, nhưng NHNN đã bắt đầu có điều kiện mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ.

Tuy nhiên, thị trường vàng do việc cấp phép nhập vàng nguyên liệu về để gia công vàng miếng quá ít dẫn đến thị trường luôn thiếu hụt nguồn cung vàng miếng, chênh lệch giá vàng miếng SJC so với giá thế giới quy đổi ngày càng nới rộng lên đến mức cao nhất trong năm là 2 triệu đồng/lượng vào ngày 9/11/2010.

Trước áp lực về quản lý vàng, NHNN đặt mục tiêu quản lý sản xuất kinh doanh vàng miếng để ổn định thị trường ngoại hối, bình ổn thị trường vàng và kéo giá vàng trong nước và thế giới sát nhau và cho rằng mức chênh lệch hợp lý  từ 400.000 - 600.000 đồng/lượng.

Năm 2011, thị trường ngoại hối tiếp tục ổn định, giá USD trên thị trường tự do được bình ổn theo giá của các ngân hàng. NHNN tiếp tục mua mạnh ngoại tệ và nhờ vậy dự trữ ngoại tệ của NHNN cuối năm 2011 ước đạt 17 tỷ USD, tăng mạnh so với cuối năm 2010 và nhập siêu năm 2011 là 9,8 tỷ USD. Đó là  thành công rất lớn của NHNN khi đã tạo được thị trường ngoại hối ngày một vững chắc, nhập siêu về mức thấp nhất trong 5 năm tính từ năm 2007.

Trái ngược với kết quả của thị trường ngoại hối, thị trường vàng trong nước vẫn không được cải thiện và diễn biến phức tạp. Kết thúc năm 2011, giá vàng thế giới đóng cửa 1574,5 USD/ounce, tăng 16,8% so với giá vàng cuối năm 2010. Giá vàng miếng trong nước vẫn do hạn chế nguồn cung nên mức chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới nhìn chung phổ biến ở khoảng 2-3 triệu, cao nhất tới hơn 4 triệu đồng/lượng. Hoạt động của một số cá nhân và tổ chức kinh doanh vàng có yếu tố đầu cơ, chạy theo tâm lý đám đông của giá vàng vẫn tiếp diễn. Mục tiêu quản lý vàng để kéo giá trong nước và thế giới vẫn không đạt được và ngày càng xa vời. Các tổ chức, công ty kinh doanh vàng lớn bị “kết tội” đầu cơ và lũng đoạn giá vàng để kiếm lãi lớn.

Năm 2012, tỷ giá ngoại tệ với VND tiếp tục ổn định, thị trường ngoại tệ tự do ổn định, trầm lắng, NHNN đã hoàn toàn làm chủ thị trường ngoại hối. Việt Nam xuất siêu 284 triệu USD, đây là lần đầu tiên Việt Nam xuất siêu kể từ năm 1993. Nhờ nguồn ngoại tệ chảy nhiều vào ngân hàng nhiều nên dự trữ ngoại tệ của NHNN đạt kỷ lục theo con số ước tính trên 30 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2011, một kết quả thành công tốt đẹp, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định nền tài chính quốc gia.

Thị trường vàng trong  6 tháng đầu năm 2012 vẫn diễn biến như năm 2011, chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới từ 2 - 3 triệu đồng/lượng. Ngày 3/4/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Nghị định có hiệu lực từ 1/10/2012, nguồn cung gia công vàng miếng SJC chính thức bị thắt chặt hoàn toàn nên thị trường khan hiếm vàng miếng SJC. Mức chênh lệch giá vàng miếng SJC và thế giới ngày càng lớn và đến cuối năm 2012 thì chênh lệch là trên 5 triệu đồng/lượng.

Trong khi đó hệ thống cửa hàng bán lẻ vàng miếng SJC mới theo Nghị định 24 chưa được thành lập nên việc mua bán vàng miếng SJC của người dân hết sức khó khăn và đẩy giao dịch vàng của người dân ở khắp nơi thành phạm pháp. Các tổ chức và cá nhân kinh doanh vàng lớn nay không còn bị kết tội đầu cơ, lũng đoạn thị trường và chỉ người dân mua bán là thiệt thòi. Căn bệnh “độc quyền  kinh doanh” luôn là nỗi ám ảnh gây bức xúc và bất bình nay lại hiện hữu với kinh doanh vàng. Việc thực hiện quản lý thị trường vàng có nhiều bất cập. Khi đó, NHNN lại xoa dịu và đưa ra hy vọng khi công bố chính thức gia công vàng miếng vào năm 2013 và tổ chức đấu thầu thì giá vàng trong nước sẽ được kéo sát giá vàng thế giới.

Sang năm 2013, cho dù giới đầu cơ tạo ra cơn sốt tăng giá ngoại tệ trên thị trường tự do vào đầu tháng 4, NHNN vẫn bình thản, tự tin, làm chủ điều tiết diễn biến trên thị trường ngoại hối ngân hàng và dập tắt nhanh chóng cơn sốt. Nhưng với thị trường vàng, tất cả rất chờ đợi và hy vọng NHNN đưa vàng miếng đấu thầu ra thị trường để kéo giá sát với giá thế giới. Đến ngày 14/5 là phiên đấu thầu thứ 17 với tổng sổ 463.700 lượng vàng, tương đương 17,8 tấn vàng cung ra thị trường thì giá vàng miếng SJC quy đổi với thế giới ngày 15/5 chênh 5,2 triệu đồng/lượng, và đặc biệt đỉnh điểm cao nhất gần 7 triệu vào ngày 18/4/2013. Việc NHNN luôn đặt ra giá đấu thầu cao là nguyên nhân kéo rộng khoảng cách vàng miếng SJC với vàng thế giới - vì giá đấu thầu của NHNN là chỉ định giá bán vàng trên thị trường. Khi này NHNN là nhà độc quyền: nhập khẩu, gia công, cung cấp và tạo lập làm giá trên thị trường vàng (?).

Sau khi những phiên đấu thầu vàng không đem lại kết quả mong muốn là kéo giá vàng trong nước sát giá vàng thế giới, NHNN lý giải rằng NHNN quản lý và đấu thầu để ổn định thị trường vàng; đấu thầu là để tăng nguồn cung cho thị trường; vàng không phải nằm trong danh sách mặt hàng bình ổn giá, NHNN không có nhiệm vụ bình ổn giá vàng. NHNN mới đây trấn an dư luận là sau 30-6 khi các ngân hàng thương mại tất toán xong trạng thái vàng thì giá vàng trong nước sẽ sát giá vàng thế giới. Những tuyên bố và giải thích trên phần nào cho thấy sự lúng túng, bất cập khi “hành chính hoá” quản lý thị trường vàng.

Rõ ràng đến nay chúng ta thấy, chính sách quản lý thị trường vàng (mấu chốt là vàng miếng SJC) từ năm 2010 đến nay đã góp phần rất lớn ổn định thị trường ngoại hối, ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng mục tiêu quản lý thị trường vàng là bình ổn và đưa giá vàng trong nước về sát giá thế giới là không thiết thực, không khả thi. Chính sách đó cũng đẩy NHNN vào sự mạo hiểm khi đứng ra tổ chức kinh doanh vàng như một công ty, điều mà không NHNN trên thế giới nào làm như vậy. Chính sách đó bóp méo nguyên tắc nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng quyền tự do kinh doanh của cá tổ chức và cá nhân cũng như các lợi ích kinh tế chính đáng của người dân.

NHNN nên trả thị trường vàng về như trước kia và chỉ giới hạn mục tiêu chính quản lý thị trường vàng là quản lý nguồn cung cho thị trường, cụ thể: cấp phép cho tổ chức, doanh nghiệp đủ điều kiện nhập vàng nguyên liệu; Cấp phép gia công vàng miếng từ số vàng nguyên liệu đó; Giao trách nhiệm các tổ chức, doanh nghiệp đó bình ổn giá. Khi đó chúng ta có được thị trường vàng theo đúng nghĩa của kinh tế thị trường, các quyền kinh doanh vàng của các tổ chức, cá nhân được tôn trọng. Chúng ta vẫn ngăn chặn được ảnh hưởng của thị trường vàng lên thị trường ngoại tệ tự do và thị trường ngoại hối. NHNN cũng sẽ trút được gánh nặng của quản lý thị trường vàng phức tạp, tập trung vào các nhiệm vụ chính trị và kinh tế lớn để vực dậy nền kinh tế đang khó khăn hiện nay, giải cứu hàng chục ngàn doanh nghiệp đang trong cơn bĩ cực, vừa thiết thực, vừa quan trọng hơn rất nhiều.