Những vấn đề đặt ra

Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Xác định rõ vai trò quan trọng đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến phát triển các DNNVV bằng việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, phát triển. Ngày 23/10/2006, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 239/ QĐ-TTg, Kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm (2006- 2010). Ngày 7/9/2012, Chính phủ đã có Quyết định số 1231/QĐ-TTg phê duyệt “Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015”. Đây là Kế hoạch lần thứ hai phát triển DNNVV của Việt Nam, xác định mục tiêu tổng quát nhằm “đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để các DNNVV đóng góp ngày càng cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế”.

Kế hoạch đưa ra các mục tiêu cụ thể trong phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015 như sau: Số DN thành lập mới giai đoạn 2011-2015 dự kiến đạt 350.000 DN, đến ngày 31/12/2015 cả nước có 600.000 DN đang hoạt động; Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực DNNVV chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc; Đầu tư của khu vực DNNVV chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; Khu vực DNNVV đóng góp khoảng 40% GDP, 30% tổng thu ngân sách nhà nước; tạo thêm khoảng 3,5- 4 triệu việc làm mới.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Kế hoạch xây dựng 7 nhóm giải pháp, bao gồm: Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của DN; Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNNVV; Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các DNNVV; Phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị cho DNNVV; Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho các DNNVV; Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường cho DNNVV; Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển DNNVV; Quản lý thực hiện kế hoạch.

Có thể nói, các mục tiêu, kế hoạch trên đến nay cơ bản Việt Nam đã đạt được khi DNNVV chiếm khoảng 97% trong tổng số gần 600 nghìn DN trên cả nước. Trung bình mỗi năm, DNNVV đã tạo thêm khoảng nửa triệu lao động mới; sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp trên 40% GDP cho nền kinh tế…

Tuy nhiên, đằng sau những con số thống kê trên, DNNVV phải đối mặt với nhiều khó khăn và còn chứa đựng rất nhiều tồn tại, hạn chế. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế kéo dài, những yếu kém của DNNVV Việt Nam càng bộc lộ rõ rệt. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, khoảng 20% số DNNVV đang hoạt động có thể trụ được trong cạnh tranh, 60% số DNNVV đang phải cố gắng để tồn tại, 20% số DNNVV đã bị giải thể hoạt ngừng hoạt động… Trong năm 2013, cả nước đã có 60.737 DN phải giải thể hoặc ngừng hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2012, trong đó số DN đã giải thể là 9.818, tăng 4,9%; số DN đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803, tăng 35,7%; số DN ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116, tăng 8,6%.

Hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các DNNVV chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu. Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới rất thấp so với các nước trong khu vực mới chỉ đạt 2%. Nguồn vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chỉ khoảng 0,2% - 0,3% tổng doanh thu. Trình độ thiết bị công nghệ trong các DNNVV lĩnh vực tư nhân chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các DN lớn... Thực trạng này đang đặt ra những thách thức lớn đối với năng lực cạnh tranh của DNNVV trong khu vực nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

Bên cạnh đó, trình độ, năng lực tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế trong quản trị DN của DNNVV còn hạn chế, nhiều DN chưa có chiến lược kinh doanh mà vẫn chủ yếu kinh doanh dựa trên kinh nghiệm, kinh doanh theo phi vụ. Tầm hoạt động và mạng lưới phân phối sản phẩm hẹp, hoạt động xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết thực. Kiến thức quản trị và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của lãnh đạo và quản lý của DNNVV còn hạn chế. Phần lớn các chủ DN và giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã hội, luật pháp...

Ngoài ra, DNNVV Việt Nam gặp phải một số vấn đề cố hữu như không tiếp cận được với các chính sách, chương trình ưu đãi của Chính phủ một cách hiệu quả; khó tiếp cận nguồn vốn vay; công nghệ lạc hậu; chất lượng nguồn lao động thấp; chi phí sản xuất cao; hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn; thị trường tiêu thụ hẹp…

Hiện DNNVV Việt Nam đang phải cạnh tranh trong điều kiện không cân sức, chưa bắt tay sản xuất kinh doanh đã thua kém đối thủ vì chi phí vốn vẫn còn cao so với các công ty đa quốc gia. Không chỉ khó cạnh tranh, việc giữ và phát triển thương hiệu Việt trước sự xâm lấn, thôn tính của các DN nước ngoài cũng đến hồi báo động.

Năm 2013, cả nước đã có 60.737 DN giải thể hoặc ngừng hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2012; Trong 10 tháng đầu năm 2014, cả nước có 54.333 DN gặp khó khăn buộc giải thể hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.

Giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhỏ và vừa

Làm thế nào để DNNVV Việt Nam vượt qua được các khó khăn, thách thức và cả những tồn tại cố hữu để tận dụng tốt được cơ hội phát triển, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:

Về chủ quan tại mỗi doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Một là, cần đổi mới tư duy kinh doanh: Một trong những yếu tố tạo nên sự lớn mạnh, sự bứt phá của DN chính là tư duy kinh doanh của các nhà quản trị DN. Hiện nay, rất nhiều DNNVV thậm chí chưa xác định rõ sản phẩm và dịch vụ chủ đạo; đặt mục tiêu tăng trưởng và lợi nhuận lên trên mục tiêu an toàn và chất lượng; quản trị rủi ro tác động đến dòng tiền yếu, quản trị khả năng thanh toán yếu. Đổi mới tư duy quản trị ở đây là tách biệt giữa quản trị và điều hành. Tầm nhìn của nhà quản trị công ty là một yếu tố cốt lõi mở đầu cho sự thay đổi. Chỉ những DN dám thay đổi những thói quen kinh doanh, thay đổi cách làm ăn cũ, mạnh dạn đầu tư, đổi mới kỹ thuật để đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường mới giành chiến thắng.

Cách tiếp cận nhằm giải quyết các khó khăn trong tình hình hiện nay là các DN cần rà soát lại danh mục đầu tư, kinh doanh, thực hiện đổi mới việc kinh doanh, ưu tiên cho những sản phẩm, “dự án” có thể làm ngay và đem lại hiệu quả tức thì nhằm giúp DN giải quyết khó khăn trước mắt để tồn tại. Sau đó, cần thực hiện các biện pháp nhằm cấu trúc lại tổ chức, tối ưu hóa việc sản xuất, kinh doanh theo hướng tăng năng suất chất lượng, chống lãng phí và tiết kiệm nhằm giảm tối đa chi phí, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm.

Hai là, nâng cao thương hiệu bằng chất lượng, hình thức sản phẩm: Chất lượng, công dụng và hình thức sản phẩm là yếu tố quyết định sức mua của người tiêu dùng ngày nay. Điều dễ nhận thấy là, người tiêu dùng sẽ tìm đến và thậm chí chấp nhận mua với giá cao hơn, những hàng hoá, dịch vụ có thương hiệu uy tín một khi chất lượng ngày càng được bảo đảm và từ đó họ yên tâm sử dụng. Điều này cũng được hiểu rằng trong quá trình xây dựng thương hiệu, DN luôn phải gắn với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ. Để làm được việc này, các DN thường xuyên tìm kiếm, đổi mới và cải tiến công nghệ, bên cạnh việc tạo dựng mẫu mã và kiểu dáng đẹp, hấp dẫn của sản phẩm. Trong quá trình cải tiến và đổi mới công nghệ, các DN sẽ tạo ra các giải pháp, quy trình và bí quyết kỹ thuật - là những thành tố quan trọng của công nghệ.

Ba là, xác định rõ thị trường mục tiêu phù hợp: Cùng với sản phẩm, thị trường vừa là mục tiêu vừa là đối tượng phục vụ của DN - yếu tố sống còn trong hoạt động kinh doanh của mọi DN; Không có thị trường nào là bền vững mãi mãi, trong những thời điểm khó khăn, nếu biết lựa chọn phân khúc thị trường phù hợp có thể cứu cả DN.

Bốn là, nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm: Để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm thì yêu cầu trước tiên các DN phải thực hiện là đầu tư thiết bị khoa học công nghệ. Một trong những điểm yếu của các DNNVV Việt Nam so với DN nước ngoài là sự lạc hậu về công nghệ, nhiều DN không mạnh dạn đầu tư thiết bị mới vì sợ tốn kém. Những DN có tầm nhìn dài hạn, quyết tâm sử dụng khoa học công nghệ hiện đại mới tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, vượt trội so với sản phẩm cùng loại, mới có thể cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường.

Năm là, cơ cấu lại chất lượng nguồn nhân lực: Tổ chức bộ máy quản trị DN là phương tiện để thực hiện kinh doanh và tái cơ cấu DN. Tổ chức bộ máy quản trị hợp lý sẽ giảm chi phí tiền lương và chi phí kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng phục vụ khách hàng. Ngược lại, tổ chức quản trị cồng kềnh không chỉ gây lãng phí, kém hiệu lực trong điều hành mà còn cản trở quá trình tái cơ cấu của DN. Sau khi hoàn thiện tổ chức là việc tìm kiếm và tuyển dụng nhân lực có chất lượng cao. Không có người quản trị tài năng, DN không thể thành công trong kinh doanh.

Sáu là, cơ cấu về tài chính: Các DNNVV thường thiếu vốn, kinh doanh thua lỗ, nợ nần chồng chất và có dấu hiệu rõ ràng của tình trạng mất khả năng thanh toán. Khi một DN gặp khó khăn, quá trình tái cấu trúc thường phải triển khai toàn diện theo cả ba hướng: (1) Tái cấu trúc tài chính; (2) Tái cấu trúc hoạt động; (3) Tái cấu trúc chiến lược. Trong đó, tái cấu trúc tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc đẩy lùi tình trạng mất khả năng thanh toán, thiết lập lại cấu trúc vốn vững mạnh, cung cấp đủ vốn cổ phần và dòng tiền để tài trợ cho sự tăng trưởng trong tương lai. Tái cấu trúc tài chính thường là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của các quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp theo.

Đó là quá trình tạo ra cơ cấu vốn tối ưu thông qua các biện pháp điều chỉnh giảm hệ số nợ hiện tại thấp hơn hệ số nợ tối ưu. Điều này sẽ góp phần làm gia tăng giá trị DN. Các giải pháp cho vấn đề này nhằm tạo ra sức mạnh tài chính cần thiết để đảm bảo năng lực cạnh tranh và sự tăng trưởng, hai điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại trong dài hạn của DN. Làm giảm bớt áp lực lên dòng tiền và lợi nhuận bằng việc trả bớt nợ vay; Cung cấp những nguồn vốn mới cho quá trình tăng trưởng. Đặc biệt, các DNNVV thường hay phụ thuộc vào vốn vay, do vậy, cần tạo ra sự độc lập của DN bằng cách huy động vốn từ chính cổ đông, vay vốn theo dự án tài trợ để chủ động về vốn kinh doanh.

Về khách quan tác động đến doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Để tạo đột phá cho tiến trình tái cơ cấu DNNVV cần bắt đầu từ lãnh đạo, thậm chí thay thế lãnh đạo DN để có động lực và tư duy phát triển mới; Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tái cơ cấu DN; Tăng cường khả năng quản trị DNNVV.

Tái cơ cấu là việc làm xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của chính DNNVV, nhưng DN chỉ là những tế bào của nền kinh tế nên chịu sự tác động chi phối của các điều kiện từ bên ngoài. Bởi vậy, ngoài sự nỗ lực chủ quan của các DNNVV rất cần sự trợ giúp của Nhà nước. Một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của quá trình tái cơ cấu chính là sự thay đổi nhận thức của các cấp lãnh đạo, kết hợp với chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước và có sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, các nhà tư vấn có kinh nghiệm.

Nhà nước cần đặt vấn đề tái cơ cấu DNNVV trong chiến lược hành động ngang tầm với kế hoạch tái cơ cấu DNNN, đầu tư công, hệ thống ngân hàng. Bởi trên thực tế, đối tượng DNNVV có vai trò hết sức quan trọng xét trên tất cả các lĩnh vực đóng góp trong nền kinh tế - xã hội. Cùng với đó, Nhà nước cần tạo lập môi trường luật pháp và chính sách cụ thể cho tái cơ cấu của DNNVV.

Để tái cơ cấu DNNVV thành công, phải bảo đảm các tiền đề: Ổn định kinh tế vĩ mô; Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn kết việc phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học- công nghệ vào sản xuất và quản lý.

Tài liệu tham khảo:

1. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương: Hội thảo “Nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và những điều chỉnh chiến lược”;

2. Viện Nghiên cứu Quản ký Kinh tế Trung ương: Báo cáo “Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam: Kết quả điều tra DNNVV năm 2013”;

3. Đại học Kinh tế Quốc dân: Hội thảo “Kinh tế Việt Nam 2012-2013: Tái cơ cấu DN và cân đối kinh tế vĩ mô”.

4. Số liệu của Tổng cục Thống kê; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhỏ và vừa: Yêu cầu và giải pháp thực hiện

TS. NGUYỄN THỊ KIM LÝ

(Tài chính) Khủng hoảng kinh tế kéo theo nhiều hệ lụy xấu đến các ngành, lĩnh vực nhưng chịu tác động nhiều và rõ rệt nhất là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua được khó khăn, thách thức, phát triển vững mạnh, giải pháp được đề cập nhiều trong bối cảnh hiện nay là phải quyết liệt đẩy mạnh tái cơ cấu…

Xem thêm

Video nổi bật